Đồng là kim loại được con người tìm được và sử dụng sớm nhất trong quá trình lịch sử vì vậy cũng từ lâu đồng được biết tới có công dụng chữa bệnh được ghi chép trong “Thần nông bản thảo kinh” của Trung Quốc và “Nam dược thần hiệu” ở Việt Nam.
Tên khác: Ten đồng, Đồng thanh, Rỉ đồng, Sinh lục, Gỉ đồng xanh, 銅青,铜绿.
Tên khoa học: Cuprum. Vị thuốc này có thể sản xuất trong nước và có nhập từ nước ngoại .
Mô tả: Đồng thanh là đồng tự nhiên hoặc sản xuất bằng cách để đồng ở nơi ẩm thấp có nhiều thán khí thì sẽ biến thành màu xanh lục ở bên ngoài gọi là ten đồng hay rỉ đồng, chất dễ gãy không cứng, dạng như bột phấn, hoặc người ta ngâm đồng với dấm cho biến thành màu xanh rồi cạo dùng.
Thành phần hoá học chính: CuCO, Cu (OH)2, Cu(CH,COOH ) 2.
Tính vị, công dụng: Vị chua, chát, tính bình, vào hai kinh can và đởm, khử đờm, trị lở loét, dùng chữa lở loét, trĩ mũi, loét mắt, chàm ngứa ngoài da. Uống trong để trị trúng phong đột ngột đờm kéo khò khè . Đồng lục là thuốc chữa bệnh phong nhiệt, cốt chữa về bệnh ở can kinh nhưng thường làm thuốc để xức ngoài, ít dùng trong.
Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 1,5 – 2,4g, dạng thuốc sắc, dùng ngoài, dùng riêng hay phối hợp các vị thuốc khác.
Ứng dụng:
Chữa tràng nhạc: Tùng hương (đun sôi để nguội) 60g, Rỉ đồng, Phèn mỗi vị 15g, Miêu nhãn thảo (phơi hoặc sấy khô) một năm. Các vị thuốc nghiền nhỏ, hòa tan với mỡ lợn thành keo, bồi xát vào chỗ đau. Ngày một lần.
Chữa loét chi dưới: Đồng lục, Ngân chu, Diên đan lượng bằng nhau, các vị thuốc tán nhỏ, hòa với dầu thực vật bôi vào chỗ đau.
Chữa cam tẩu mã: Đồng thanh, Hoạt thạch, Hạnh nhân, 3 vị bằng nhau tán bột xức vào.
Chữa tràng nhạc có hạch đờm: Đồng lục 15g, Nam tinh, Bán hạ, Đại hoàng mỗi vị 30g đều tươi, Bối mẫu, Côn bố, Hải tảo, Hải phù thạch, Phèn mỗi vị 15g. Tất cả nghiền nhỏ, dùng nước rễ cây Thương lục, nước Hành, nước Gừng, Mật, 4 thứ trộn với nhau, hòa với bột thuốc trên bôi vào chỗ đau .