Sơn Tra có vị chua chát, là một vị thuốc chuyên để tiêu tích do thịt cá trong bụng, điều trị tốt cho các bệnh nhân bị mỡ máu cao, béo phì,…
1. Tên gọi: bắc sơn tra, nam sơn tra, dã sơn tra, quả táo mèo, quả chua chát, Sơn hồng quả, Sơn tra thán, Tiêu sơn tra, Sơn thường tử, Tiểu nang tử, Sán sá (Tày), Co-sam-sa (Thái), 山楂,…
2. Tên khoa học: Crataegus pinnatifida Bunge (bắc sơn tra, sơn tra), Crataegus cuneata Sieb.et Zucc. (nam sơn tra, dã sơn tra).
Họ: Rosaceae
3. Mô tả cây:
Bắc sơn tra thuộc dòng cây thân gỗ cỡ trung bình cao 6m, cành nhỏ thường có gai. Lá thuôn dài 5-10cm, rộng 4-7cm, gân lá có lông mịn,lá chia 3-5 thùy, mép có răng cưa xẻ sâu, cuống lá dài 2-6cm. Hoa lớn có 5 cánh, hợp thành tán. Đài có lông mịn, cánh trắng,lượng nhị lớn. Quả hình cầu, đường kính 1-1,5cm, khi chín có màu đỏ thắm.
Cây nam sơn tra hay dã sơn tra (Crataegus cuneata) giống bắc sơn tra nhưng cao hơn vào khoảng 15m; Lá ngắn hơn chỉ dài 2-6cm, rộng 1-1,4cm. Mặt dưới cũng có lông, sau gà lông rụng hết. Quả hình cầu đường kính 1-1,2cm, chín có màu vàng hay đỏ.
Ở Việt Nam nay đang khai thác với tên sơn tra hay chua chát, quả của hai loài cây khác nhau:
Cây chua chát có tên khoa học Malus doumeri (Bois) Chev. Hay Docynia doumeri (Bois) Schneid, thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Cây này cao 10-15m, cây non có gai. Lá nguyên thuôn dài, mép khía răng cưa. Hoa trắng mọc thành cụm. Quả tròn hơi dẹt, khi chín ngả màu vàng lục, vị chua hơi chát. Mùa hoa tháng 1-2, mùa quả tháng 9-10.
Cây táo mèo có tên khoa học Docynia indica (Mall.) Dec. cùng thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Cây nhỡ cao 5-6m, cây non có cành có gai. Cây non lá mọc so le, xẻ 3-5 thùy, mép có răng cưa không đều. Ở thời kỳ cây trưởng thành lá hình bầu dục, mép nguyên hoặc hơi khía răng. Hoa trắng, mọc theo cụm khoảng 3 hoa. Quả hình cầu thuôn, khi chín màu vàng lục, có vị chua hơi chát. Mùa hoa tháng 3, mùa quả tháng 9-10.
Ngoài ra còn cây Docynia delavayi (Franch.) Schneid mùa hoa tháng 3, mùa quả tháng 6-7. Lá cây này cứng hơn cây trên, mặt dưới lá có lông cũng dày hơn. Quả cũng tương tự nhưng có cuống dài hơn.
4. Phân bố và thu hái
Việt Nam: Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu, Yên Bái, Sơn La, Lào Cai.
Trung Quốc: Hoa Nam, Quảng Châu, Vân Nam,…
Thu hái quả khi quả vừa chín tới
5. Bào chế và bảo quản
Hái về, rửa sạch, thái miếng rồi phơi sấy đến khô. Hoặc, hái về, rửa sạch, đồ chín, bỏ hạt, phơi khô dùng.
Bảo quản nơi khô ráo,trong hộp kín.
6. Thành phần hóa học
Trong Sơn tra có: acid citric, acid crataegic, acid cafiic, vitamin C, hydrat cacbon, protid, mỡ, calci, phospho, sắt, acid oleanic, ursolic, cholin, acetylcholin, phytosterin.
7. Tác dụng dược lý
- Tăng nhịp tim: Cường tim, hạ áp, tăng lưu lượng máu mạch vành, giãn mạch và chống loạn nhịp tim. Nước cất Sơn tra bắc trên động vật thực nghiệm có tác dụng phòng và giảm bớt thiếu máu cơ tim thực nghiệm.
- Giảm mỡ máu: Có tác dụng làm hạ lipid huyết rõ rệt và làm giảm xơ mỡ động mạch, cơ chế chủ yếu là do thuốc có tác dụng tăng nhanh bài tiết cholesterol chứ không phải chống hấp thu cholesterol.
- Tăng Tiêu hóa: Sau khi uống Sơn tra lượng enzym trong bao tử tăng, giúp tiêu hóa tốt hơn, lượng acid béo tăng cũng giúp tiêu hóa chất mỡ tốt hơn.
- Kháng khuẩn: Sơn tra có tác dụng ức chế các trực khuẩn thương hàn, lî, bạch hầu, mũ xanh, liên cầu beta, tụ cầu vàng. Phương pháp bào chế khác nhau không ảnh hưởng đến tác dụng kháng khuẩn của thuốc.
- Tác dụng khác: Sơn tra có tác dụng an thần, làm tăng tính thẩm thấu của mao mạch và làm co cơ tử cung.
8. Sơn tra trong y học cổ truyền
Khí vị: Vị chua khí bình không độc.
Quy kinh: kinh Túc Dương minh Vị và Túc Thái âm Tỳ.
Công năng: Tiêu thực hóa tích, hoạt huyết tán ứ
Chủ trị: chứng tích trệ, bụng đau tiêu chảy, sản hậu ứ trệ đau bụng, nước ối ra không dứt, sán khí, đau tinh hoàn.
‘Tiêu thức ăn tích tụ, là thuốc chủ yếu của nhi khoa ; chữa đau dạ con là rất tốt lành cho sản phụ. Còn như tiêu huyết trệ, chữa sang lở, hành khí kết, mạnh tỳ vị, khỏi đầy trướng, tiêu ngưng trệ cũ đều nên dùng nó. Là vì vị chua thuộc Giáp, ngọt thuộc Kỷ, Giáp Kỷ hóa thổ, cho nên cho vào thuốc bổ tỳ, để giúp tùy vận hóa. Lại như tác dụng tiêu huyết cục, hòa tan thịt tích cũng cần dùng, là vì vị chua thì vào can trừ bỏ huyết tích trệ ở đó. Thịt tích trệ cũng là loại huyết dịch hóa ra. Hột của Sơn tra chủ về thôi sinh (dễ đẻ) và Sán khí.”
(Dược phẩm vậng yếu- Hải Thượng Lãn ông Y tâm lĩnh)
Hợp dụng:
- Cùng dùng với Sâm Truật thì tiêu được tích trệ
- Cùng dùng với Khung Quy thì tan được huyết cũ.
Kiêng kỵ: Nếu tỳ hư không vận hóa được, uống nhiều uống lâu thì càng hại đến khi sinh hóa của tỳ vị, lại càng trệ thêm.
Liều lượng: 10- 30g
Cách dùng: sắc uống hoặc ngâm rượu với quả tươi.
9. Ứng dụng lâm sàng
Chữa ăn uống không tiêu: Sơn tra 10g, chỉ thực 6g, trần bì 5g hoàng liên 2g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia ba lần uống trong ngày.
Chữa hóc xương cá: Sơn tra 15g, sắc đặc với 200ml nước. Ngậm một lúc lâu rồi nuốt đi
Chữa ghẻ lở, lở sơn: Nấu nước sơn tra mà tắm.
Trị sinh xong mà sản dịch không ra hết, bụng đau, bụng đau gò lại: Sơn tra 90g, sắc kỹ, thêm ít đường, uống lúc đói rất hay (Đan Khê Tâm Pháp).
Trị thịt tích lại không tiêu: Sơn tra nhục 120g, sắc kỹ, ăn cả nước lẫn cái (Giản Tiện phương).
Trị sán khí gây nên thiên trụy (thoái vị), dịch hoàn sệ xuống: Sơn tra nhục, Hồi hương (sao), đều 30g, tán bột, làm viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 50 viên với nước sôi, lúc đói (Vệ Sinh Giản Dị phương).
Trị người lớn tuổi lưng đau, chân đau: Sơn tra nhục, Lộc nhung (nướng), lượng bằng nhau, tán bột. Luyện với mật làm viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Ngày uống 2 lần, mỗi lần uống 50 viên với rượu (Thế Y Đắc Hiệu phương).
Trị ợ hơi, rối loạn tiêu hóa: Sơn tra sống, Sơn tra sao đều 20g, sắc uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị tiêu chảy: Sơn tra thán 10g, tán bột, uống với nước sôi (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị kinh nguyệt bế do ứ huyết hoặc sau khi sinh bụng đau do ứ trệ: Sơn tra 40g, sắc, bỏ bã, trộn với 25g đường, uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị lỵ mới phát: Sơn tra 30g, sắc nước. Thêm đường mía 30g, Tế trà sắc sôi, uống nóng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).