Xuất phát từ cuốn “Thái bình huệ dân hòa tễ cục phương”, Tứ vật thang là bài thuốc nổi tiếng trong việc điều trị các chứng về huyết trong y học cổ truyền do tác dụng điều huyết ở Can kinh. Hiện nay, bài thuốc được sử dụng yểu trong điều trị các bệnh về kinh nguyệt, thiếu máu, suy nhược,..
Thành phần Tứ Vật Thang
Thục địa hoàng 24g
Bạch thược 16g
Đương quy 16g
Xuyên khung 8g
Cách dùng: Có thể tán thành bột khô, hòa với nước uống, hoặc làm ẩm phiến, hoặc làm thành thang sắc uống khi còn ấm.
Công dụng của Tứ Vật thang
Công năng: Bổ huyết, điều huyết, hoạt huyết, điều kinh.
Chủ trị: Xung nhâm hư tổn, kinh nguyệt không đều, đau bụng vùng rốn, băng huyết rong kinh, huyết hoá thành khối cứng, thường gây đau, lúc thai nghén thì thai động không yên, huyết ra không dứt, lúc sinh xong sản dịch không xuống hết, kết thành hòn tụ, bụng dưới đau cứng, có lúc nóng lạnh, sắc mặt vàng, môi không tươi nhuận, chất lưỡi nhạt, mạch huyền tế hoặc tế sáp.
Luận bàn về tác dụng của Tứ Vật Thang, Hải Thượng Lãn Ông viết:
Bài này chữa hết thảy các chứng Hậu thiên huyết hư chiều gần tới sốt nóng hoặc sốt nóng về chiều, hoặc nóng âm hầm hập, lòng bàn chân nóng (âm huyết không đủ thời sinh nhiệt). Kinh nói: Huyết cần phải làm cho thấm nhuần. Thành phần gồm những vị nhu nhuận, nên mới làm chủ được huyết phận.
Do hai mạch Xung, Nhâm có bệnh, kinh nguyệt không đều, đàn bà có chứng huyết thành khối, vùng bụng và xung quanh rốn đau (thấy kinh đến sớm trước kỳ là do hàn, do hư, do uất, do đờm). Đan Khê nói: “kinh thủy là một thứ âm huyết, âm tất nhiên phải theo dương, cho nên có màu đỏ, ứng với sự vận động của mặt trăng ở trên trời) mà hành kinh theo thường kỳ nên gọi là nguyệt kinh (kinh nguyệt tâm huyết) phải chịu sự chi phối của khí, theo khí mà vận hành (khí không hành được bị tụ lâu), khi sắp hành kinh mà đau bụng là do khí trệ. Sau khi hành kinh mà lại đau là khí huyết đều hư, sắc huyết nhạt (không thật đỏ mà loãng) cũng là hư, huyết ra bừa bãi là do khí loạn; sắc huyết đỏ sẫm là do khí nhiệt, sắc đen là nhiệt quá, Người đời nay mỗi khi thấy huyết sắc đen và thành khối phần nhiều cho là phong lạnh lọt vào, liền cho uống loại thuốc ôn nhiệt, chết dễ như chơi. Kinh nói: “Cang thời hại, thừa sẽ chết” nhiệt quá là kèm có hóa thủy, vì thế nên nhiệt thời sắc “sẫm” mà nhiệt quá thời sắc đen. Hoặc có người nói phong lạnh tất phải từ ngoài vào. Hàn thời ngưng (vón cục lại) mà không dẫn đi được. Đằng này đã dẫn đi mà sắc lại sẫm và đen, nên không phải là hàn. Băng huyết, lậu huyết (huyết ra rỏ giọt liên miên không dứt ta gọi là rong huyết), điều lý không đúng, khiến cho thai động không yên huyết ra không dứt… và sau khi đẻ phong hàn thừa hư lọt vào, ác lộ (máu hôi) không ra được, bụng dưới cứng rắn và đau, thỉnh thoảng phát sinh nóng, rét, vv…
Bài này lại là một bài Điều ích Vinh Vệ và nhuần nuôi khí huyết, đàn ông tinh huyết hư tổn, sinh chứng sốt nóng… cũng đều dùng được (đàn bà lấy huyết làm chủ, mà khí lại là gốc của huyết, vậy khí thuận thời huyết lưu hành không vướng ắc, nếu khí trệ thời huyết hai, cho nên muốn cho huyết lưu hành tốt. trước hết phải lý khí). Đàn ông lấy tinh làm chủ, mà huyết lại là gốc của tinh, huyết nhiều thời tinh mạnh, huyết kém thời tinh suy cho nên muốn được ích tinh, trước hết phải bổ huyết, vì lẽ đó, nam nữ đều dùng được bài này.
Phương giải Tứ Vật thang
Tứ vật thang là một bài chữa về Thủ Thiếu âm, Túc Thái âm và Quyết âm (Tâm thống huyết, Tỳ sinh huyết, Can chứa huyết).
- Đương quy bổ chung cả Tỳ, Tâm và Can, vì tân, ôn khổ và cam, dùng làm quân. Quy là vị chủ yếu trong loại thuốc chữa huyết. Vì tính và vị của Quy là tân, khổ, cam, ôn nên có tác dụng sinh huyết, hòa huyết, làm mấu chốt cho cơ năng nhiếp huyết, có khả năng nhuận trung và trừ chứng đau nhói, (đau như dùi đâm). Một củ quy chia làm 3 bộ phận khác nhau, nếu dùng toàn cả củ sẽ làm cho hoạt huyết, kinh nào về kinh đó.
- Sinh địa có khí vị cam hàn, vào Tâm, Thận thấm nhuần cho huyết, có làm thân. Nó có tác dụng thông Thận, vào Tâm kinh, là vị cần thiết, quan trọng trong loại thuốc chữa về huyết. Nhờ khí vị cam hàn mà làm khỏi chứng đau ở rốn, bổ âm, mát huyết, dội vào nguồn của huyết, có thể sinh được chân âm sau khi bị hư. Có thuyết nói: thủy là nguồn của huyết, nên lấy nó làm quân. Nếu muốn bổ mạnh vào tinh huyết nên đổi dùng Thục địa.
- Bạch thược là vị thuốc thông vào phần âm của các kinh Tâm, Can, Tỳ. Nhờ tính vị toàn hàn mà Thược có tác dụng “hoãn trung”, phá huyết khỏi đau bụng bổ tỳ âm, liễm can huyết, điều hòa huyết ở mọi nơi, chữa huyết hư.
- Xuyên khung có khí vị tân, ôn, thông suốt trên dưới, để vận hành phần khí trong huyết, dùng làm sứ, dẫn vào kinh quyết âm Tâm bào và kinh Can. Trên thời lên tới đầu và mắt, dưới thời xuống tới huyết hải. Nó là một vị khí dược ở trong huyết. Có tác dụng cổ vũ các loại âm dược dẫn trở lên. Nhờ khí vị phân tán, nên chữa được chứng đau ở xung quanh rốn, làm mát khí dương điều hòa huyết, vận hành huyết trệ (mà huyết trệ là do khí hư).
Gia giảm Tứ Vật Thang
- Bài thuốc được dùng nhiều chữa các chứng bệnh phụ nữ kinh nguyệt không đều, đau kinh, tắt kinh cùng nhiều bệnh khác có hội chứng huyết hư.
- Trường hợp huyết hư kiêm khí hư gia Đảng sâm, Hoàng kỳ để bổ khí sinh huyết.
- Trường hợp có ứ huyết gia thêm Đào nhân, Hồng hoa ( là bài Đào hồng Tứ vật), để hoạt huyết khu ứ.
- Trường hợp huyết có hàn gia Nhục quế, Bào khương để ôn dưỡng huyết mạch.
- Nếu huyết hư sinh nội nhiệt gia Liên kiều, Hoàng cầm, Đơn bì dùng Sinh địa thay Thục địa để thanh nhiệt lương huyết.
- Trường hợp huyết hư có chảy máu bỏ Xuyên khung gia A giao, Hoa hòe, Tông lư than để chỉ huyết.
- Trường hợp huyết hư trệ, đau kinh gia Hương phụ chế, Uất kim để hành khí giải uất, điều kinh chỉ thống.
- Trường hợp huyết hư đau đầu, váng đầu gia Bạch chỉ, Cảo bản để khu phong chỉ thống.
Biến phương từ Tứ Vật Thang
STT | Tên bài thuốc | Gia giảm vị | Tác dụng |
1 | Tri bá tứ vật Thang | Gia Hoàng bá, Tri mẫu | Dưỡng âm huyết, giáng thận hỏa. Trị băng lậu, âm hư hỏa vượng, bụng đau. |
2 | Khảm ly hoàn | Gia Tri mẫu, Hoàng Bá, Mạch môn, Ngũ vị tử, lấy SInh địa thay Thục địa | Chữa chứng âm hư có hỏa và thổ huyết |
3 | Ngọc trúc tán | Vị Đương quy đổi làm Quy vỹ, Bạch thược đổi làm Xích thược, gia Đại Hoàng, Mang tiêu và cam thảo. | Chữa chứng kinh bế đau bụng, thân thể gầy còm và ốm đói |
4 | Tam hoàng bổ huyết thang | Gia Thục địa, Hoàng kỳ, Mẫu đơn, Thăng ma, Sài hồ | Chữa vong huyết và huyết hư sáu bộ mạch đều Đại, ấn tay xuống thấy trống (không hư) |
5 | Nguyên nhung Tứ vật thang (Tứ Vật Đào Hồng thang) | Gia Đào nhân, Hồng hoa | Chữa đại tiện bí hoặc kết, hoặc bị ngã thành ứ huyết |
6 | Hoạt lạc Tứ vật thang | Chữa chứng liệt nửa người, hỏng ở bên trái là thuộc về ứ huyết | Đào nhân, Hồng hoa, Trúc lịch, Khương Trấp |
7 | Phòng phong đương quy tán | Bỏ Bạch thược gia Phòng phong. | Chứng và phát hãn quá nhiều, mà thành chứng kính, cần phải trừ phong nuôi huyết mới khỏi |
8 | Ngải phụ noãn cung hoàn | Gia Ngải diệp, Hương phụ (Hương phụ tẩm đồng tiện, nước muối, rượu, giấm thanh… mỗi thứ tẩm hai đêm ngày rồi mới sao), dùng tán bột, luyện với giấm thanh làm hoàn. | Chữa tử cung hư hàn |
9 | Phật thủ tán (Nhất kỳ tán, lại có tên là Quân thân tán) | Bỏ Địa hoàng, Bạch thược, rồi tán bột cho uống. | Chữa sau khi đỏ, huyết hư, nhức đầu hoặc động thai ra huyết. Uống bài này thì tử cung yên ngay, dù thai bị chết cũng ra được |