I.Tổng quan
1.Khái niệm: Xung Nhâm hàn chứng là tên gọi chung chi những chúng trạng do hàn ngưng ở Xung Nhâm dẫn đến huyết đi không thư sướng gây nên bệnh, nguyên nhân phần nhiều do ngoại hàn ẩn náu thẳng vào cơ thể hoặc ở người thể chất vốn Dương hư.
2. Biểụ hiện lâm sàng
Đau bụng dưới, trước hoặc sau khi hành kỉnh bụng dưới lạnh đau hoặc chu kỳ kinh nguyệt muộn và kéo dài, hoặc bế kinh, hoặc Bào cung bị lạnh không thụ thai, hoặc sau khỉ đẻ bị đau bụng dưới.
Các bệnh xuất hiện Xung Nhâm hàn chứng
- Thống kinh
- Hành kinh muộn
- Bế kinh
- Bất dựng
- Đau bụng sau khi đẻ.
Cần chẩn đoán phân biệt với chứng Xung Nhâm ứ trở.
II. Phân tích
Xung Nhâm hàn chứng có thể chia hai loại Hư và Thực. Thực chứng vốn do tà khí ngoại hàn ẩn náu thẳng vào Xung Nhâm. Hư chứng vốn do thể trạng dương hư, hàn từ trong sính ra. Loại trên thường cố nguyên nhấn bên trong bẩt túc. Vì có phân biệt Hư và Thực, cho nên biểu hiện lâm sàng và phép chữa cũng không giống nhau hoàn toàn, cần phải phân tích kỹ.
1.Trong bệnh Thống kinh
a, Hư hàn
Biểu hiện: Phần nhiều biểu hiện sau khi hành kinh đau nhẹ bụng dưới, gặp ấm thì đỡ, lượng kinh huyết ít và sắc nhạt hoặc tối tía cố lần cả cục huyết nhỏ, tay chân không ấm, chất lưỡi bệu nhạt hoặc tía tối, mạch Trầm-Tế v.v…
Nguyên nhân: Thận dương bất túc, Xung Nhâm hư hàn, ứ huyết nghẽn trệ gây nên
Điều trị: ôn Kinh tán hàn, dưỡng huyết trừ ứ, cho uống bài Ôn kinh thang (Kim Quỹ yếu lược).
b, Thực hàn
Biểu hiện lâm sàng: thường thấy khi hành kinh đau bụng kịch liệt nhất là khi hành kinh ở ngày thứ nhất đau dữ dội thậm chí mặt môi đều trắng bệch, da lạnh tự ra mồ hôi, phát sinh hàn quyết, kèm theo lượng kinh ra ít, sắc huyết tía tối có cục, sau khi ra được hòn cục thì đau giảm nhẹ.
Nguyên nhân phần nhiều do khi hành kinh bị nhiễm lạnh uống lạnh hoặc lội nước dầm mưa, hàn tế ẩn náu ở Xung Nhâm đến nỗi kinh huyết bị hàn làm ngưng lại, vận hành không lưu thành gây nênĐiều trị nên ôn kinh tán hàn, hoạt huyết trục ứ, cho uống bài Thiếu phúc trục ứ thang (Y lâm cải thác).
2. Trong bệnh hành kinh muộn
a, Hư hàn
Biểu hiện: hành kinh lượng ít thậm chí chỉ ra vài giọt đã sạch, sắc huyết nhạt hoặc xẫm, lượng ít, bụng dưới cảm giác chống chếnh và đau hoặc nặng trệ, đồng thời lưng gối tê mỏi mềm yếu.
Nguyên nhân: Thận dương bất túc, tinh huyết suy kém, huyết hải không tràn đầy đúng kỳ hạn gây nên
Điều trị: ôn bổ Thận dương kiêm tư dưỡng tinh huyết, cho uổng bài Đương quy địa hoàng ẩm (Cảnh Nhạc toàn thư) gia Tiên linh tỳ, Tiên mao, Tử hà sa.
b,Thực hàn
Biểu hiện: kinh huyết ra sắc tối, lượng ít, bụng dưới lạnh đau.
Nguyên nhân: gần tới lúc hành kinh, cảm nhiễm hàn tà, ẩn náu ở Xung Nhâm, huyết bị hàn làm ngưng đọng gây nên;
Điều trị nên ôn kinh lưu thàng trệ, cho uống bôi Ôn kinh thang (Phụ nhân lương phương).
3. Trong bệnh Bế kinh gặp chứng Hư hàn
Biểu hiện: các chứng trạng thể trạng béo mập, phù thũng, nhiều lông hoặc thể trạng gầy còm, lông tóc rụng.
Nguyên nhân: Bế kinh lâu ngày, Thận dương suy giảm, hoặc sau khi đẻ huyết ra quá nhiều, chân dương chân âm bị tổn hại, thiên quí khô kiệt gây nên.
Điều trị: nên ôn bổ Thận dương, bổ mạnh tinh huyết, cho uống bài Bổ Thận dưỡng huyết thang (Trung y chứng trạng giám biệt chán đoán, học) gia Lộc nhung, Sơn thù; cũng có thể gia Khương hoạt từ 6-10 gam để thông Đốc mạch.
4. Trong bệnh Bất dựng (không thụ thai) xuất hiện chứng Hư hàn
Biểu hiện lâm sàng: hành kinh muộn, lượng ít sắc nhạt, thờ ơ sinh lý thế ôn hơi thấp, sắc mặt tối xạm, lưng đùi yếu mỏi.
Nguyên nhân: Thận dương bất túc, Bào cung mất sự sưởi ấm gây nên
Điều trị: ôn Thận làm ấm bào cung, cho uống bài Dục dựng thang (Trung y chứng trạng giám biệt chẩn đoán học) gia Ngài diệp, Hương phụ.
5. Trong khi Sau đẻ
a, Hư hàn
Biểu hiện đau bụng mềm; ưa xoa bóp, chân tay nghịch lạnh, sắc mặt trắng xanh, mạch Trầm Tế hoặc Trầm Trì
Nguyên nhân: Xung Nhâm rỗng không, huyết thiếu khí yếu, vận hành vô lực, trệ lại mà đau.
Điều trị nên bổ hư hành trệ, cho uổng bài Nội bổ đương quy kiến trung thang (Thiên kim yếu phương) gia Hương phụ.
b, Thực hàn
Biểu hiện: bụng dưới lạnh đau mà cự án
Nguyên nhân: Phần nhiều do sau khi đẻ nằm ngồi không cẩn thận, gió lạnh nhân chỗ hư lọt vào Xung Nhâm, huyết xấu ứ trệ gây nên bệnhĐiều trị: tán hàn thông trệ, dùng bài Xúc cung trục ứ thang (Trung y chứng trạng giám biệt chẩn đoán học) gia Nhục quế tâm.
Tóm lại, nguyên nhân của chứng này không ngoài hai phương diện Hư hàn, Thực hàn, nhưng trong những tật bệnh khác nhau, biểu hiện lâm sàng cũng có đặc điểm riêng. Lâm sàng nên căn cứ vào đặc điểm bệnh chứng như nói ở trên mà phân tích thêm.
Vả lại, chứng Xung Nhâm hư hàn phần nhiều phát sinh ở người tuổi cao thể lực yếu, bởi vì tuổi cao thì Thận dương hư dần, khí của Xung Nhâm cũng suy dần, rất dễ phát sinh các chứng hành kinh muộn, bế kinh, đau bụng sau khi hành kinh, không thụ thai, đau bụng sau khi đẻ. Còn chứng thực hàn phần nhiều gặp ở người trẻ tuổi khỏe mạnh, bởi vì chỉ cậy vào người khỏe sức mạnh, tràn trề ý muốn, lại thêm vào không biết nhiếp sinh khi đang hành kinh hoặc sau khi đẻ, thường dẫn đến hàn tà xâm nhập Xung Nhâm mà gây nên chứng ứ huyết, biểu hiện chủ yếu là bụng dưới lạnh đau, hành kinh lượng ít, hành kinh đau bụng hoặc vòng kinh muộn và kéo dài, hoặc sau khi đẻ ác lộ bị ứ trệ. Do con người đã như vậy, điều trị cũng phải “nhân nhân chế nghi”.
Chứng Thực hàn vì bệnh trình khá ngắn, thể trạng vốn khá tốt, nói chung dùng phép ôn kinh hoạt huyết là có thể hàn trừ ứ tan, Xung Nhâm lưu hàng ngay. Nhưng nếu kéo dài chữa chạy không kịp thời, dương khí tổn hại từ bên trong, hoặc là hàn tà thương dương thái quá cũng có thể diễn biến thành chứng Hư hàn. Mà chúng Hư hàn thì bệnh trình khá dài, bệnh trình sâu nặng hơn, chỉ nên điều, hòa ôn bổ từ từ. Nếu ôn bổ quá mạnh, âm dịch bị tổn hại, hoặc bệnh lâu ngày âm dịch bị hao từ bên trong thi chứng Hư hàn có thể tiến lên phát triển thành chứng Âm Dương đều hư. Trên lâm sàng ngoài những biểu hiện của chứng Hư hàn, còn có các chứng trạng Hư nhiệt như ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khô họng ráo, mặt đỏ bừng, chất lưỡi đỏ nhuận, mạch Tế Hoạt v.v. .. Hai chứng phân biệt không mấy khó khăn.
III. Chẩn đoán phân biệt
Chứng Xung Nhâm ứ trở với chứng Xung Nhâm thực hàn, nguyên nhân và cơ chế bệnh của hai chứng biểu hiện lâm sàng mười phần giống nhau, bộ phận chứng hậu ứ trở có thể là chứng Thực hàn phát triển thêm một bước nhưng cũng có khác nhau nhất định.
Bàn theo nguyên nhân bệnh, chứng Thực hàn phần nhiều do chu kỳ, sản hậu, Xung Nhâm rỗng không, ngoại hàn trực tiếp ẩn náu gây nên. Dương khí bị tổn thương thì khí của Xung Nhâm không mạnh, huyết hải không thể tràn ra đúng thời hạn, cho nên hành kinh muộn; Huyết bị hàn ngưng, vận hành không thư sướng gây nên thống kinh, đau bụng sau khi đẻ. Nhưng chứng ứ trở phát sinh, tuy nhiên có liên quan tới ngoại hàn làm thương trực tiếp vào Xung Nhâm, nhưng đại bộ phận là do thất tình nội thương, công năng Tạng Phủ không điều hòa gây nên. Mặt khác, bệnh trình của chúng ứ trở khá dài, phần nhiều là hữu hình khá rõ, khác với chứng Thực hàn. Vả lại Thực hàn thì thấy hiện tượng Hàn, ứ trở thì hiện tượng Hàn không rỗ; như vậy cũng đủ thấy sự khác nhau của hai chứng.
IV. Trích dẫn y văn
Phụ nữ kinh nguyệt không đều, do phong hàn nhân chỗ hư ẩn náu ở Bào cung, mà tổn thương mạch của Xung Nhâm (Phụ nhân lương phương).
Phụ nữ kinh nguyệt không đều, do lao thương khí huyết, thể trạng hư mà phong hàn ẩn náu trong Bào cung, tổn thương mạch của Xung Nhâm cho nên như vậy (Phụ nhân lương phương).
Phụ nữ hành kinh đau bụng, do phong hàn ẩn náu ở Bào lạc Xung Nhâm, hoặc tổn thương Kỉnh Thủ Thái dương Thiếu âm, dùng Ôn kinh thang, Quế chi đào nhân thang (Phụ nhân lương phương).
Huyết gặp nhiệt thì lưu thông, gặp hàn thì ngưng lại. Phụ nữ hoặc là kinh, hoặc là sau khi đẻ, hoặc là ốm lâu thể trạng hư, phong lạnh nhân chỗ hư lọt vào, ẩn náu ở Bào môn, lâu ngày tất phải tổn thương Xung Nhâm, sẽ biến thành bệnh tật trầm hàn cố lãnh (Trần Tố Yêm phụ khoa bổ giải).
HỨA NHUẬN TAM