Hoa cúc là một loại hoa dùng để làm cảnh, cây dễ trồng, dễ chăm sóc nhưng cũng là một loại dược liệu rẻ tiền nhưng mang lại nhiều công dụng hữu ích.
Tên gọi vị thuốc Cúc Hoa
Tên thường gọi: Cúc hoa, Cúc diệp, Mẫu cúc, Nữ hoa, Nữ tiết, Dược cúc, Cam cúc hoa, Bạch cúc hoa, 菊花,…
Tên khoa học: Chrysanthemum morifolium Ramat thuộc họ Cúc (Compositae).
Mô tả cây Cúc hoa
Gồm 2 loại: Cúc hoa vàng và Cúc hoa trắng
- Cúc hoa trắng là một cây sống hai năm, cây dễ sống. Thân cây mọc thẳng đứng phủ bởi lông trắng mềm, cao từ 0,5-1,4m. Lá mọc so le, có lông trắng mỏng, phiến lá hình trứng hay hơi thuôn hai đầu tù, dài 3,5-5cm, rộng 3-4cm, chia thành 3-5 thùy mép có răng cưa và lượn sóng. Cụm hoa hình đầu, màu trắng hay hơi tía ở phía ngoài, vàng ở giữa, mọc ở đầu cành hay kẽ lá.
- Cây cúc hoa vàng là một cây mọc thẳng đứng cao chừng 90cm. Phiến lá hình 3 cạnh tròn, thuỳ xẻ sâu. Cụm hoa hình cầu, đường kính nhỏ hơn loài hoa cúc nói trên, thường chỉ độ từ 1 -1,5cm (loài trên đo được 2,5-5 cm). Hoa trong và ngoài đều màu vàng .
Phân bố, thu hái, bào chế và bảo quản dược liệu cúc hoa
Phân bố:
- Ở Việt Nam: cúc hoa được trồng ở nhiều địa phương, tập chung ở Hưng Yên, Nhật Tân (Hà Nội) và Hà Tây
- Ở Trung Quốc: Hồ Bắc, Chiết Giang, An Huy, Tứ Xuyên, Chiết Giang,…
Thu hái vào tháng 9-tháng 11. Cắt cả cây, phơi trong chỗ râm mát rồi ngắt lấy hoa, hoặc ngắt luôn hoa tươi cũng được.
Bào chế:
- Dùng tươi: Hái hoa về, phơi trong bóng râm.
- Dùng khô: Hái hoa về làm sạch rồi sấy diêm sinh độ 2-3 giờ, khi thấy hoa mềm ra chín đều là được (hoa sẽ hỏng nếu còn sống). Sau đó, đem nén, nén càng chặt càng tốt. Nén độ 1 đêm thì thấy nước màu đen chảy ra là được, tiếp tục đem phơi độ 3-4 nắng nhẹ nữa thì dùng được. Nếu trời râm thì đêm phải sấy diêm sinh. Cứ 5-6kg hoa tươi cho 1kg khô.
Bảo quản: Dược liệu dễ mốc, sâu mọt nên để nơi khô ráo, xông Diêm sinh định kỳ. Không nên phơi nắng nhiều vì mất hương vị và nát cánh hoa, biến màu, không được sấy quá nóng. Chỉ nên hong gió cho khô, dễ bị ẩm.
Thành phần hóa học và Tác dụng dược lý dược liệu Cúc Hoa
Thành phần hóa học: Hoa chứa dầu dễ bay hơi, các thành phần chính làborneol, long não, chrysanthenone, luteolin-7-glucoside, cosmosin ( cosmosiin) là apigenin-7-O-glucoside [1], acacetin-7-Orhamnoglucoside, apigenin, apigenin-7-O-rhamnolide Glucogen (apigenin-7-O-rhamnoglucoside), locustin-7-O-glucoside (acacetin-7-O-glucoside), quercetin-3-O-galactoside (isorhamnetin-3-O-galactoside) , Luteolin-7-O-rhamnogside (luteolin-7-O-galactoside), luteolin-7-O-rhamnogside [2], luteolin Luteolin,-elemene, thymol, heneicosane, tricosa-ne, hexacosane [3] , Cũng như đường và axit amin [4].
Tác dụng dược lý:
- Tác dụng đối với hệ tim mạch: Thuốc sắc hoa cúc và các chế phẩm kết tủa rượu có tác dụng đáng kể trong việc mở rộng tim mạch vành và tăng lưu lượng mạch vành ở tim thỏ bị cô lập. Tiêm 1 g thuốc thô vào dịch truyền tưới máu áp suất không đổi gần ống thông tim có thể làm tăng lưu lượng mạch vành khoảng 62% trong 2 phút và làm giảm nhịp tim trung bình khoảng 20%. Liều lớn hơn cũng có thể gây ra sự gia tăng trung bình lưu lượng mạch vành khoảng 40% và tăng trung bình tiêu thụ oxy của cơ tim lên 27% ở tim chó. Nó có thể làm giảm trầm cảm đoạn ST của điện tâm đồ thiếu máu cục bộ do kích thích điện của hệ thần kinh trung ương của thỏ, và nhịp tim không có thay đổi hoặc chậm lại, về cơ bản phù hợp với kết quả thí nghiệm tim thỏ bị cô lập. Trái tim cô lập của thỏ bị xơ vữa động mạch thực nghiệm cũng có thể làm tăng lưu lượng mạch vành và tăng tiêu thụ oxy của cơ tim. Các chiết xuất nước hoa cúc và các chế phẩm kết tủa rượu được chia thành các phần khác nhau bằng cách chiết xuất ethyl acetate và chloroform, và mỗi phần có tác dụng làm tăng lưu lượng mạch vành. Tuy nhiên, không ai trong số chúng mạnh như chế phẩm ban đầu, chỉ ra rằng hoa cúc có chứa nhiều hoạt chất tim, phản ánh tác dụng hiệp đồng lên tim. Trong nghiên cứu về các thành phần phenolic của hoa cúc, người ta đã phát hiện ra rằng hiện tượng phenolic hoa cúc có thể làm tăng lưu lượng tim mạch vành ở lợn guinea trong ống nghiệm và tăng khả năng chịu đựng của chuột đối với việc giải nén và thiếu oxy. Trạng thái máu, mặc dù nó có tác dụng tăng cường khả năng co bóp của tim và tăng tiêu thụ oxy, nhưng dường như nó vẫn bị chi phối bởi sự giãn nở của mạch vành.
- Tác dụng chống vi sinh vật gây bệnh: Thuốc sắc hoa cúc hoặc chiết xuất nước, xét nghiệm in vitro có tác dụng ức chế nhất định đối với nhiều loại vi khuẩn gây bệnh, cũng như virut cúm PR8 và Leptospira, MIC khoảng 1: 10-1: 80 . Các xét nghiệm kháng khuẩn ở chuột cho thấy dầu dễ bay hơi thu được bằng cách chưng cất toàn bộ cỏ tươi (trên mặt đất) với nước có tác dụng kháng khuẩn mạnh đối với Staphylococcus aureus, Escherichia coli, F. falciparum, v.v. Phế cầu là không hiệu quả.
- Tác dụng khác: Sau 3 tuần uống thuốc sắc hoa cúc ở chuột, nó ức chế hoạt động của microsymal hydroxymethylglutaryl coenzyme gan Một reductase và có thể kích hoạt cholesterol microsome 7a-hydroxylase của gan. Kết hợp hoa cúc với Achyranthes bidentata, đất trưởng thành và khoai lang có thể kéo dài tuổi tằm và ảnh hưởng đến hoạt động của glutathione peroxidase trong máu và hàm lượng lipid peroxide ở chuột. Bột hoa cúc có thể cung cấp cho thỏ một quản lý nội bào, có tác dụng rút ngắn thời gian đông máu. Việc chuẩn bị hoa cúc cũng có thể ức chế sự tăng tính thấm mao mạch cục bộ do tiêm histamine trong da, và hiệu quả của nó là 10 mg tương đương với rutin 2,5 mg.
Cúc hoa trong y học cổ truyền
Khí vị: Đắng, ngọt, bình và hơi hàn
Quy kinh: Thủ Thái âm Phế, Túc Quyết âm Can, Túc Thiếu âm Thận, Túc Thái âm Tỳ.
Công năng: Sơ phong, Thanh nhiệt, Minh mục, Giải độc, Dưỡng can
Chủ trị: Huyễn vựng, Phong nhiệt kinh Can :Đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, hội chứng tiền đình, tăng huyết áp,…
Hợp dụng: Bạch truật, Địa cốt bì, rễ cây Tang bạch bì làm sứ cho Cúc Hoa.
Lưu ý:
- Tỳ vị hư hàn, Khí hư, Dương hư thì kiêng dùng.
- Cúc hoa vàng mạnh về sơ tán phong nhiệt, đau đầu mắt đỏ thường dùng.
- Cúc hoa trắng mạnh về dưỡng can minh mục thường dùng chữa chứng Can thận âm hư sinh mờ mắt, còn có tác dụng giảm đau.
Liều lượng: 4-20g, dùng tươi hay đắp thì tùy yêu cầu.
Ứng dụng lâm sàng vị thuốc Cúc Hoa
Làm nhan sắc đẹp, chống lão hóa: Bạch cúc chọn vào ngày 9-9 (âm lịch),lấy hoa 2 cân, Phục linh một cân,tán bột. Mỗi lần uống 8g với rượu nóng, ngày 3 lần(Thái Thanh Kinh Bảo phương).
Trị đầu đau do phong nhiệt: Cúc hoa, thạch cao, Xuyên khung, đều 12g. tán bột. Mỗi lần uống 6g với nước trà (Giản Tiện Đơn phương).
Trị kinh thái âm nhiễm phong ôn, ho, sốt, hơi khát: Hạnh nhân 8g, Liên kiều 6g, Bạc hà 3,2g, Tang diệp 10g, Cúc hoa 4g, Cát cánh 8g, Cam thảo 3,2g, Vi căn 8g. sắc với 2 chén nước, còn 1 chén. Chia làm 3 lần uống (Tang Cúc Ẩm – Ôn Bệnh Điều Biện).
Trị mắt có màng mộng sau khi bị bệnh: Bạch Cúc hoa, Thuyền thoái, 2 vị bằng nhau, tán bột. Mỗi lần dùng 2-12g trộn với một ít mật, sắc uống (Cấp Cứu phương)
Giải rượu: Lấy Cúc hoa tán bột, uống (Ngoại Đài Bí Yếu).
Trị đinh nhọt sưng đau: Rễ Cúc hoa 1 nắm, gĩa nát, vắt lấy nước uống (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Trị nhức đầu do huyết hư:
- Cúc hoa, Xuyên khung, Tế tân, Cảo bản, Đương quy, Sinh địa, Thục địa hoàng, Thiên môn, Mạch môn, Bạch thược dược, Cam thảo, Đồng tiện (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
- Cúc hoa cùng với Câu kỷ tử, 2 vị bằng nhau, trộn với mật làm viên uống thì phòng được bệnh mắt, trúng phong và đinh nhọt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Trị phong ôn giai đoạn đầu, hơi lạnh,sốt, hoa mắt, chóng mặt, mắt đỏ, mắt đau: Cúc hoa 12g, Tang diệp 8g, Câu đằng 8g, Liên kiều 4g, Cát cánh 8g, Cam thảo 4g, Xa tiền thảo 12g. Sắc uống (Tang Cúc Câu Liên Hợp Tễ Gia Giảm – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị phong nhiệt do Can kinh, mắt đỏ, mắt sưng đau: Cúc hoa 12g, Bạch tật lê 12g, Khương hoạt 2g, Mộc tặc 12g,Thuyền thoái 3,2g. Sắc uống (Cúc Hoa Tán – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị Can Thận đều hư, nhìn kém:
- Thục địa 20g, Sơn dược 16g, Phục linh, Cúc hoa, Đơn bì, Sơn thù du, Cúc hoa, Câu kỷ mỗi thứ 12g, tán bột, trộn mật làm viên uống (Kỷ Cúc Địa Hoàng Hoàn – Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
- Cam cúc hoa là thuốc chính trong việc khu phong, phong mộc thông với can, can khai khiếu ở mắt,vậy nó là thuốc chủ yếu trị sáng mắt, thường dùng với Địa hoàng, Hoàng Bá, Câu kỷ tử, Bạch tật lê, Ngũ vị tử, Sơn thù du, Đương quy, Linh dương giác, Gan dê (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
- Trị Can Thận đều hư, mắt đau, thêm Quyết minh tử, Mộc tặc thảo, Cốc tinh thảo, Sài hồ, có thể khử màng mộng ở mắt (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).