Trần bì là vỏ quả quýt chín phơi khô, được sử dụng phổ biến trong y học cổ truyền gắn liền với câu nói “Nam bất thiểu trần bì, nữ bất ly hương phụ”. Trần bì thường dùng chữa đầy bụng, khó tiêu, ợ hơi, ho có đờm, kém ăn, nôn mửa, tiêu chảy…
1.Tên gọi: Trần bì, quất bì, quảng trần bì, tần hội bì, vỏ quýt.
2. Tên khoa học: Pericarpium Citri Reticulatae
3. Mô tả cây: Cây thân gỗ, cao 5-8m. Cành cứng, không có gai hoặc có gai ngắn. Lá mọc so le, nguyên hoặc hơi khía tai bèo, dai, hình trái xoan, gốc thuôn, đầu tù hoặc hơi nhọn, mặt trên nhẵn bóng, mặt dưới nhạt có gân nổi rõ, cuống lá ngắn, hơi có cánh.
Hoa mọc riêng lẻ ở kẽ lá, đài hoa có 5 răng hình trái xoan, có mũi nhọn. Tràng có 5 cánh thuôn dày.
Quả gần hình cầu, dẹt, khi chín màu vàng cam sẫm, vỏ quả lồi lõm nhưng không sần sùi, cơm quả ngọt, chua và thơm
Mùa hoa quả: Tháng 7-12
4. Phân bố và thu hái
Ở Việt Nam quýt được trồng ở nhiều nơi, nhiều nhất ở Bắc Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên…
Thu hái khi quả từ tháng 7-12.
5. Bào chế và bảo quản
Muốn thuốc vào trung tiêu, điều tỳ vị thì để xơ trắng , vào thuốc hạ khí tức, tiêu đờm cao sạch xơ trắng. Muốn bỏ lớp xơ trắng thì cho ít muối vào nước sôi hoà tan, tẩm cho mềm thấu, cạo bỏ hết gân và xơ trắng, phơi khô dùng, cũng có khi sao, tuỳ từng trường hợp.
Rửa sạch không rửa lâu, lau cạo sạch phí trong, thái nhỏ , phơi nắng rửa cho khô. Sao nhỏ lửa để dùng.
Trần bì để càng lâu dùng càng tốt
Bảo quản nơi khô ráo tránh nóng ẩm.
6. Thành phần hóa học
Trong vỏ quít có khoảng 1,5 – 2% tinh dầu, trong đó chủ yếu có: Limolene, lopropenyl-toluene, Elemene, Copaneme, Humulene, Beta-sesqui-phellandrene, Anpha-humulenol acetate, Hesperidin, Caroten, Cryptoxanthin, Vitamin B1, C.
Theo GS Đỗ tất Lợi vỏ quít còn tươi có chứa tinh dầu 3,8% (2.000 đến 2.500 quả cho 1 lít tinh dầu), nước và thành phần bốc hơi có 61,25% Besperidin, Vitamin A, B và chừng 0,8% tro.
7. Tác dụng dược lý
Tác dụng đối với cơ trơn của dạ dày và ruột:
Tinh dầu của Trần bì có tác dụng kích thích nhẹ đối với đường tiêu hóa giúp cho ruột bài khí tích trệ ra ngoài dễ dàng, tăng tiết dịch vị có lợi cho tiêu hóa, có tác dụng làm giãn cơ trơn dạ dày và ruột.
Tác dụng khu đàm bình suyễn: thuốc kích thích niêm mạc đường hô hấp làm tăng dịch tiết, làm loãng đàm dễ khạc ra. Xuyên trần bì làm giãn phế quản hạ cơn hen. Dịch cồn chiết xuất Quất bì với nồng độ 0,02g ( thuốc sống)/ml hoàn toàn ngăn chận được cơn co thắt phế quản chuột lang do histamin gây nên.
Kháng viêm, chống lóet: Thành phần humulene và anpha humulenol acetat có tác dụng như vitamin P. Chích Humulene vào ổ bụng chuột nhắt với liều 170 -25mg/kg có tác dụng làm giảm tính thẩm thấu của mạch máu do Lecithin dung huyết làm tăng. Chích 10mg Humulene vào ổ bụng một con chuột nhắt cũng có tác dụng kháng histamin, gây tăng tính thẩm thấu của thành mạch. Anpha humulenol acetate có tác dụng chống lóet rõ và làm giảm tiết dịch vị trên mô hình gây lóet dạ dày bằng cách thắt môn vị.
Tác dụng đối với hệ tim mạch: Nước sắc Trần bì tươi và dịch chiết cồn với liều lượng bình thường có tác dụng hưng phấn tim, liều lượng lớn có tác dụng ức chế, nếu chích thuốc nhanh vào tĩnh mạch thỏ và chó, huyết áp tăng cao, nhưng bơm vào dạ dày thì không có tác dụng đó.
Tác dụng kháng khuẩn: Quảng trần bì trong ống nghiệm, có tác dụng ức chế sinh trưởng của tụ cầu khuẩn, trực khuẩn dung huyết, ái huyết.
Những tác dụng khác: Trần bì còn có tác dụng chống dị ứng, lợi mật, ức chế cơ trơn của tử cung.
8. Trần bì trong y học cổ truyền
Khí vị: Vị cay đắng khí ôn không độc, vị bạc mà khí hậu, giáng xuống nhiều, đưa lên ít, là âm ở trong dương dược
Quy kinh: Thủ Thái âm Phế và Túc Thái âm tỳ, Túc dương minh vị
Công năng: Lý khí điều trung, táo thấp hóa đàm.
Chủ trị: Tỳ vị khí trệ, khí hư, đầy bụng ăn không tiêu, đàm thấp ứ trệ, phế khí mất tuyên thông.
“Trần bì chữa ở phần cao, Thanh bì chữa ở phần thấp, người thể thực đờm khí bế tắc uống thì tốt, nếu để cùi trắng thì bể dạ dày, điều hòa trung tiêu mà giúp tỳ khí, bỏ cùi trắng đi thì tiêu đờm lợi trệ mà chữa phế tỳ là mẹ đẻ ra nguyên khí, phế là cái ống khóa để giữ khí cho nên nó chuyên chủ điều hòa mọi khí, không thể tách rời hai kinh đó. Chữa cước khí xung tâm, trừ nhiệt lưu bàng quang, lợi đường nước, thông 5 chứng lâm, giải độc rượu, trừ sán Xơ mít, tiêu thức ăn tích trệ, tiêu đờm, khai vị hạ khí xuống, chữa hoắc loạn thổ tả. Ôn được bổ được, hòa được, có công hơn các vị thuốc khác.”
(Dược phẩm vậng yếu- Hải thượng Lãn ông Y tâm lĩnh)
Hợp dụng:
- Bạch đàn làm sứ
- Cùng dùng với Bạch truật, Bán hạ thì thẩm thấp mà mạnh cho tỳ và vị
- Cùng Cam thảo, Bạch truật dùng ít thì bổ cho tỳ và vị
- Nếu dùng nhiều, dùng độc vị thì lại tả phế
- Cùng dùng với Can khương để trị nấc vì hàn
- Cùng dùng với Thương truật, Hậu phác trừ tà tự vị đến cách mạc, lồng ngực
- Gia thêm những loại như Sinh khương, Thông bạch, Ma hoàng thì tán được tà còn rớt lại ở phần thịt cho đến ngoài da vì cho vào thuốc bổ khí thì ích khí
- Cho vào thuốc tiết khí thì phá khí, cho vào thuốc tiêu đờm thì trừ đờm
- Cho vào thuốc tiêu thức ăn thì tiêu thức ăn tích tụ, tức là theo từng thuộc loại của nó
Kiêng kỵ: Phàm chứng âm hư hoặc dương hư, cũng như khi bệnh thế âm dương sắp thoát thì không dùng Trần bì.
Thận trọng đối với các trường hợp sau: thực nhiệt, khí hư, âm hư, ho khan, thổ huyết.
Chú ý: Trần bì uống nhiều, dùng lâu có hại đến nguyên khí
Liều lượng: 3 -9g.
9. Ứng dụng lâm sàng
9.1.Trị chứng nôn do hàn, tiêu chảy thường.
- Quất bì thang: Quất bì 12g, Sinh khương 8g: sắc uống.
- Bình vị tán ( Hòa tễ cục phương): Trần bì, Cam thảo, Thương truật, Hậu phác lượng bằng nhau tán bột mịn trộn đều, mỗi lần uống 4 – 6g, ngày uống 2 – 3 lần hoặc làm thuốc thang uống trị ỉa chảy.
- Dị công tán ( Tiểu nhi dược chứng trục quyết): Đảng sâm 8g, Bạch truật 8g, Bạch linh 8g, Chích thảo 4g, Trần bì 4g: sắc nước uống hoặc làm thuốc hoàn, tán dùng trị: rối loạn tiêu hóa, trẻ suy dinh dưỡng.
- Thông tả yếu phương ( Cảnh nhạc toàn thư): Bạch truật ( thổ sao) 12g, Phòng phong (sao) 8g, Bạch thược (sao) 8g, Trần bì (sao) 6g. Theo tỷ lệ này làm thuốc hoàn, tán mỗi lần uống 4 – 6g, ngày 2 -3 lần, hoặc làm thuốc thang uống. Trị chứng tiêu chảy thường có kèm sôi bụng và đau bụng.
9.2.Trị chứng ho có đờm ( do cảm hàn):
- Nhị trần thang ( Hòa tễ cục phương): Bạch linh 12g, Trần bì 6g, Khương bán hạ 6g, Cam thảo 4g, Gừng tươi 2 lát sắc uống.
- Trần bì 6g, Cát cánh 6g, Tô diệp 6g, Cam thảo 4g: sắc nước uống trị ho viêm họng, viêm phế quản nhẹ.
- Trần bì 12g, sắc với 200ml nước còn 100ml thêm đường đủ ngọt, chia uống nhiều lần trong ngày. Trị ho mất tiếng.
9.3. Trị ho, hư yếu, tiêu đờm
Sâm bối trần bì: Trần bì thêm Nhân sâm, Bối mẫu cùng chế với nhau
Trần bì 6g, cát cánh 6g, tô diệp 6g, cam thảo 4g, sắc uống trong ngày.
10. Các vị thuốc khác từ cây quýt
Quất hạch (Hạt quýt) Là thuốc hay nhất để chữa chứng thận khi đau eo lưng, bàng quang sán khí đau, tán bột uống với rượu 5 đồng cân.
Quất bì (Vỏ quýt). Là vị thuốc rất hay để hành khí của Can, tan ung nhọt ở vú, ung nhọt ở hông sườn, vắt lấy nước mà uống.
Thanh bì (Quả quýt non phơi khô) Vị rất đắng mà cay, khí ôn không độc, chìm mà giáng xuống, là dương ở trong âm dược, vào kinh Túc Thiếu dương, là thuốc dẫn kinh của Quyết âm, chủ phá khí trệ, lợi cho khí của tỳ và vị, tiêu thức ăn uống, trừ tích kết khí ở cách mạc, ngăn trướng đau ở bụng dưới, lại tả được khí của Can, trị đau bên sườn, sán khí và dập tắt được chứng kinh động hỏa ở đởm (nên dùng 2, 3 phân). Lý Đông Viên nói: phá được khí trệ, càng ở chỗ thấp lại càng hay, trừ chứng tích càng ở dưới lại càng tốt, khí hư yếu thì dùng ít, vì là có khí trệ thì phá khí trệ, không có khí trệ thì tổn hại chân khí, chứng khí đoản thì hoàn toàn cấm dùng.