Tứ quân tử thang thường gọi là Tứ quân thang, là phương thuốc nổi tiếng về điều trị các bệnh về “khí” trong y học cổ truyền. Xuất phát từ cuốn “Hòa tể cục phương”, bài thuốc nay được ứng dụng trong điều trị các chứng bệnh suy nhược cơ thể, viêm phế quản,…
Thành phần bài thuốc Tứ Quân Tử Thang
Nhân sâm hoặc Đảng sâm 12g
Phục linh 12g
Bạch truật 12g
Chích thảo 8g
Cách dùng: Tán bột mịn, mỗi lần uống 8 – 12g, sắc nước uống. Có thể làm thuốc thang.
Tác dụng bài thuốc Tứ Quân Tử Thang
Công năng: Ích khí, kiện tỳ, dưỡng vị.
Chủ trị: Tỳ vị khí hư, vận hóa kém gây các chưng khí hư, dương hư.
Bài này chữa hết thảy các chứng Hậu thiên dương hư, khí yếu, Tỳ Hư, Phế tổn không thiết uống ăn (Tỳ là mẹ của muôn vật, Phế là mẹ của khí, một khi Tỳ Vị bị hư thì Phế khí sẽ bị sút trước. Vì Tỳ không tiện vận, nên không thiết sống ăn, do đó mình gây, mặt vàng hoặc trắng bệch. Đây là do”vọng”mà biết là hư), da nhăn, tóc rụng (vì Phế chủ về bì mao), nói năng nhỏ yếu (đây là do “văn” mà biết là khí hư), tay chân rã rời (đây là do “vấn” mà biết là khí hư mạch nhuyễn nhược (do Tỳ Phế đều hư nên mạch như vậy, đây là do “thiết” mà biết là khí hư). Phàm những người hình thể bạc nhược, hơi ngắn, ăn ít, tiểu tiện đỏ và ít, đại tiện lỏng, vv… đều nên giúp Vị giáng hỏa (bài này chứa khí hư có nhiệt lại là thuốc cần thiết chữa trẻ em Tỳ, Vị không điều hòa).
Ứng dụng lâm sàng: Ngày nay thường dùng để điều trị viêm dạ dày cấp, mạn tính, viêm hang vị, loét dạ dày, loét hành tá tràng, suy giảm chức năng dạ dày ruột, băng huyết, rong kinh, viêm gan mạn tính.
Phương giải bài thuốc Tứ Quân
Đây là bài thuốc chữa về hai kinh Thủ Thái âm phế và Túc Dương minh vị.
- Nhân sâm khí vị cam ôn đại bổ nguyên khí làm quân để bổ nguyên khí của cả 5 tạng, khí mạnh thời Vị sẽ phát triển, khí hòa thời Tỳ sẽ vận hóa.
- Bạch truật khí vị khổ ôn, ráo Tỳ, bổ khí làm thân, để bổ mẫu khí của 5 tạng, vừa bổ tỳ, vừa tiêu thực, là một loại thuốc rất hay chữa mọi chứng hư của Tỳ, Vị.
- Phục linh khí vị cam đạm, tả nhiệt và thẩm thấp làm tá, để điều hòa thanh khí của 5 tạng và giúp Vị, khỏe Đại Tiểu trường, nó lại còn có tác dụng giúp Sâm, Truật để hút bớt khí thấp của Tỳ, Phế, dẹp “tà” của Can, Thận, khiến cho Mộc không khắc Thổ, Thủy không phá Thổ.
- Cam thảo khí vị cam bình, bổ trung ích thể làm sứ, để điều hòa những khí không được đúng mức của 5 tạng, vừa ôn trung vừa khỏe Tỳ, lại có tác dụng làm cho tính chất của các vị kia êm dịu cho Tỳ được bổ dưỡng một cách dần dà thấm thía.
Bốn vị trong phương này rất hòa bình, có thể giúp ích cho chúng dương hư, lại toàn là những vị cam ôn, có cái khí vị trung hòa như người quân tử không chút thiên lệch, nên mới đặt tên là Tứ quân tử.
Các vị thuốc hợp lại tính dược ngọt ôn có tác dụng ích khí kiện tỳ dưỡng vị.
Gia giảm bài thuốc Tứ Quân
- Tay chân không cất lên được, gia Trần bì, Bán hạ, Mạch môn và Trúc lịch.
- Sợ sệt không ngủ được, gia Sinh khương, Táo nhân.
- Tiêu khát không ăn được, gia Mộc hương, Hoắc hương, Cát căn, Sài hồ và Ngũ vị.
- Bán thân bất toại về bên hữu, với chứng “đởm” “quyết” chết ngất, gia Trần bì, Bán hạ, Trúc lịch, nước gừng.
- Dương hư, gia Phụ tử.
- Thố, tả : gia Hoắc hương, Hoàng kỳ, Biến đậu. Nếu nội thương”đình ẩm”choáng váng hoa mắt nước ứ đọng không được bỏ Sâm, giảm bớt Thảo, gia Nhục quế. Nếu tiết tả vẫn không khỏi, gia và Đậu khấu.
- Tỳ, Vị hư yếu gia Nhục quế, Đương quy, Hoàng kỳ
- Vị lạnh, gia Phụ tử, Đinh hương, Sa nhân
- Tỳ yếu ngắn hơi, gia Mộc hương, Sa nhân, bội Nhân sâm gấp hai lần cũ.
- Bụng trướng không thiết ăn, gia Bạch đậu khấu, Chỉ thực, Sa nhân.
- Bệnh chứng thuộc thực, vòng ngực đầy tức, thở Suyễn, gia Chỉ thực, Bán hạ, và Chỉ xác
- Ho, gia Tang bạch bì, Ngũ vị và Hạnh nhân.
- Tâm phiền không yên: gia Thần sa, Táo nhân, Viễn chí.
- Tâm phiền, miệng khát, vị Nhân sâm dùng nhiều gấp đôi và gia Hoàng kỳ
- Chỉ có tâm phiền, ngoài ra không còn chứng gì khác gia Mạch môn, Phục thân, Liên nhục.
- Đau bụng do khí gia Huyền hồ, Tiểu hồi, Đương quy.
- Khí kết lại thành hàn, gia Tam lăng, Nga truật, Hồi hương và Phụ tử.
- Đau do huyết cũng gia vị như trên.
- Đau bụng gia Can khương, Xích thược, Nhục quế. Đau do huyết cũng có thể dùng được.
- Khí hư thành nuy (tay chân rã rời, lỏng gân, đi đứng khó khăn) gia Thương truật, Hoàng bá, Hoàng cầm (chứng thấp cũng dùng được).
- Ngoại cảm nóng rét, gia Ma hoàng, Quế chi.
- Chứng cảm mạo phát sinh trong ba mùa Xuân, Hạ, Thu, gia Phòng phong Khương hoạt.
- Chứng phong nhiệt, gia Kinh giới, Hoàng cầm, Bạc hà.
- Bổ dưỡng sau khi ốm mới khỏi, gia Trần bì.
- Triều nhiệt (sốt nóng theo cơn) gia Tiền hồ, Xuyên khung; khát nước, gia Mộc qua, Cát căn, ô mai
- Chứng thấp nhiệt miệng khát cũng gia như vậy
- Tiểu tiện không thông gia Trạch tả, Mộc thông, Trư linh.
- Đại tiện không thông gia Bình lang, Đại hoàng.
- Sau khi ốm dậy, mắc chứng hư nhiệt, gia Thăng ma, Sài hồ và Đương quy.
- Đẻ khó, gia Xạ hương, Bạch chỉ, Bách thảo sương.
- Trẻ em phong đờm, gia Bạch phụ, Toàn yết, Tế tân.
- Sởi, đậu đã mọc, nhưng chưa đều, gia Thăng ma, Cát căn.
- Trẻ em yếu đuối, sắc xanh, dương hư, sau khi bị thổ tả, biến thành”mạn kinh”, gia Mộc hương.
- Hư trướng, hư bĩ, phát sinh bởi bên trong bị lạnh vị Bạch truật dùng nhiều gấp đôi, gia chút ít Bào khương, Phụ tử.
- Có khí trệ, gia Mộc hương.
- Thổ hư, khí không thu liễm được gia Ngũ vị, Đại phu.
- Nếu trướng, bị phát sinh từ âm phận, đó là bởi Tỳ âm bị suy kém, gia Đương quy, Bạch thược và Ngũ vị.
Biến phương từ Tứ Quân Tử Thang
STT | Tên bài thuốc | Gia vị | Giảm vị | Tác dụng |
1 | Dị công tán | Trần bì | điều lý Tỳ, Vi, làm tan nghịch khí | |
2 | Lục quân tử thang | Bán hạ và Trần bì | Bán hạ có tác dụng làm ráo khí thấp chữa tự nơi gốc sinh ra đờm, Trần bì có tác dụng hòa khí, bài tiết bỏ cái ngon của đờm. Ngon gốc cùng điều trị, công bố đều thi hành tuy bổ mà không trệ, tuy công mà không mạnh, nên mới gọi là quân tử. Kinh nói : người khỏe thời khí lưu hành không hề chi, người yêu thời khí nghẽn tắc mà sinh bệnh. Bài này chuyên về làm cho khí khỏe, khí đã khỏe thời ” thăng, giáng ” sẽ được dễ dàng, thứ trong thời dẫn lên trên, thứ đục thời trở xuống dưới. Như vậy thời còn lo gì có vật ứ đọng bám vào trong nội tạng nữa. | |
3 | Hương sa lục quân tử thang | Trần bì, Chế Bán hạ, Mộc hương, Sa nhân | chữa chứng hư làm Vị đau, hoặc đau bụng ỉa chảy | |
4 | Thập toàn nhân sâm tán | Trần bì, Bán hạ, Sài hồ, Cát căn, Hoàng cầm và Bạch thược. | chữa hư nhiệt, sốt nóng theo cơn và thân thể mỏi mệt | |
5 | Tứ thú ẩm | Trần bì, Bán hạ, Ô mai, Thảo quả, phân lạng bằng nhau, thêm Đại táo 3 quả, gừng sống 3 lát cùng sắc uống. | Bài này chữa năm tạng khí hư, bảy tính dồn dập, kết tụ thành ” đờm ẩm ” với ” Vệ khí ” cùng chèn ép lẫn nhau phát sinh ” ngược tật “. Lại chữa cả ” chướng ngược ” ( sốt rét ngã nước ). | |
6 | Lục quân tử tiễn | Hoàng kỳ, Sơn dược | Bài này dùng để điều dưỡng sau khi ốm dậy, cho được khỏe Tỳ ngon ăn, gia Sinh khương và Táo nhân ( sao ) chữa chứng sợ sệt không ngủ được, gia Trúc lịch, Khương chấp chữa chứng nửa mình bên phải bị liệt ( bất toại ), và chữa cả chứng ” đờm quyết ” chết ngất | |
7 | Thất vị Bạch truật tán | Mộc hương, Hoắc hương, Cát căn. | Bài này chữa Tỳ hư da thịt nóng, tiết tả hư nhiệt và khát nước. Gia Ngũ vị, Sài hồ, để chữa chứng tiêu khát; không ăn được; Sâm, Truật, Cát căn đều sinh ra tân dịch | |
8 | Tứ thuận thang (Lý Trung thang) | Can khương | Phục linh | Chữa chứng dương hư mạch Trầm, không có nhiệt sợ ánh sáng, đau bụng, kiết lỵ. Nếu thầy thuốc chưa nhận được rõ chứng hậu thuộc âm hay thuộc dương, nên tạm cho uống bài này. Nếu là chứng dương thời sau khi uống thuốc sẽ phát nhiệt, chống âm thời không phát nhiệt. |
9 | Tam bạch thang | Bạch thược | Sâm | chữa hư phiền, tiết tả hoặc khát nước, Bài này có khả năng chữa các chứng nội thương ngoại cảm |
10 | Lục thần tán | Hoài sơn, Biển đậu, Đại táo và Sinh khương | Chữa trẻ em sau khi biểu nhiệt đã khỏi, ít lâu lại phát nhiệt.Các thầy thuốc gặp chứng trên, không hiểu tại sao, phần nhiều dùng lương dược hoặc giải biểu, lại còn có người cho là khó chữa. Đây chính là một chứng biểu lý đều hư, khí không về nguồn mà dương phù ra bên ngoài, nên mới lại phát nhiệt, nên cho uống bài này, gia thêm gạo Cánh ( sao qua ). Vị khí được hòa thời khí trở vào mà mình sẽ mát. Nếu nhiệt nhiều, gia Thăng ma, Trị mẫu, gọi là Ngân bạch thang. |
Cấm kỵ khi dùng Tứ Quân Tử Thang
Tứ quân là một bài chính để chữa phần khí của Hậu thiên, người đời rất hay dùng. Nhưng phần nhiều chỉ biết những chứng hậu thích ứng của nó, còn những chứng cấm kỵ thì không biết.
- Các chứng âm hư hỏa động lại ăn uống kém sút, nếu thấy thể bệnh cần phải dùng bài này thì vị Bạch linh nên tẩm sữa, Bạch truật nên tẩm mật, mà chỉ uống tạm thời thôi. Bởi dương được phần nhiều hương táo, chứng âm huyết rất kỵ. Hơn nữa dương vượng thời âm tiêu, không thể cùng đi đôi với nhau được.
- Trẻ em thân thể gầy còm, đen sạm, đơn nhiệt hầm hập, màu da vàng úa, tân dịch khô kiệt, bụng nóng, ăn chóng tiêu, mình như que củi, khát nước phân táo, khóc không có nước mắt (vì trẻ em vốn thuộc vô âm) những chứng hậu trên, hoàn toàn do âm hư… Nếu chỉ tin thuyết”bài Tứ quân là thánh dược của trẻ em”… mà nhắm mắt cho uống, thời chết rất dễ. Nếu biết trẻ em”thuần dương”cần phải phối hợp với âm dược mới không hại. Ngoài những chứng Tỳ hư, thấp trệ, nhiều đờm, dễ trường dễ đi tướt (tả), uống ăn kém sút, v, v… thời dẫu có dùng cũng phải cẩn thận, vì nó là dương dược, rất dễ háo âm.
- Các chứng huyết hư không nên uống chuyên bài này, e nó lại làm hao mất huyết (khí dược có tác dụng sinh được huyết, đó lại thuộc về một lý do khác). Có khi nào những vật khô khan như vậy, mà lại dung nạp được cái tính âm nhu?