Chứng Âm Lãnh

  Đông y trị bệnh

Lạnh bộ phận sinh dục

I. Khái niệm

Âm lãnh còn gọi là âm hàn, là chứng bệnh tự phát hàn lạnh ở bộ phận tiền âm. Kim quỹ yếu lược gọi là “Âm đầu hàn”. Chư bệnh nguyên hậu luận gọi là “Hư lao âm lãnh”, Trương thị y thông, Thẩm thị tôn sinh thư gọi là Âm lãnh… đều là chỉ bộ phận tiền âm bao gồm cả âm hành, âm nang của nam giới tự cảm thấy hàn lạnh, còn như Kim quỹ yếu lược- Phụ nhân tại bệnh mạch chứng tính trị thì ghi “Phụ nhân âm hàn”, không thuộc phạm vi thảo luận ở mục này.

II. Chứng hậu thường

1. Âm lạnh do Mệnh môn hoả suy: Có chứng bộ phận sinh dục cảm giác lạnh, bệnh trình kéo dài kiểm chứng lưng gối vô lực, chân tay lạnh sợ lạnh, thậm chí thành thủy thũng đoản hơi, tinh thần mệt mỏi, sắc mặt trắng nhợt, ngũ canh tiết tả, nước tiểu trong dài, dương nuy, di tinh sán khí, lưỡi nhạt bệu nhuận hoặc có vết răng, mạch Trầm Trì hoặc Khâu.

2. Âm lãnh do Can kinh thấp nhiệt: Có chứng âm lãnh kiêm cả ra mồ hôi, bộ phận sinh dục ướt và ngứa mùi tanh hôi, hoặc tảo tiết dương nuy, phiền muộn, đắng miệng, khát nước, rêu lưỡi vàng, nước tiểu đỏ hoặc lâm trọc đau ngọc hành, đại tiện khô, mạch Huyền

III. Phân biệt

Chư bệnh nguyên hậu luận- Phụ nhân tại bệnh chư hậu viết: “Âm lạnh là vì “âm dương đều hư yếu” cho nên thế. Thận chủ tinh tuý, khai khiếu ở phần âm; bây giờ âm hư dương nhược, huyết khí không tươi tốt cho nhau khiến cho âm lạnh. Lâu ngày không khỏi thì âm nuy nhược”.

Âm lạnh là do Thận khí bất túc gây nên, nhưng gặp nhiều là loại Mệnh môn hoả suy, vả lại các chứng trạng thời kỳ đầu của Dương nuy, Di tinh, Sán khí, Âm xúc, hoặc là chứng trạng kèm theo. Lần theo nguyên nhân phần lớn do phòng lao hại Thận, Hoặc do mất huyết, hạ lợi ra nguyên đồ ăn khiến cho Thận dương bất túc, mệnh môn hoả suy không làm ấm áp âm khí gây nên. Chứng trạng khá nhẹ, như Kim quỹ yếu lược- Huyết ứ hư lao bệnh mạch chứng tính trị viết: “Người bị thất tinh, bụng dưới căng gấp, âm đầu lạnh, hoa mắt, tóc rụng” mạch Khâu Trì, có thể dùng Quế chi thang gia Long cốt mẫu lệ thang hoặc dùng Thiên hùng tán gia giảm để tán hàn bền tinh. Xuất hiện chứng trạng Thận dương bất túc rõ rệt như chân tay lạnh, sợ lạnh, đoản hơi, lưng gối vô lực, tinh thần mệt mỏi, tiểu tiện trong dài, dương nuy di tinh, lưỡi bệu nhuận, mạch Trầm trì, dùng Kim quỹ Thận khí hoàn gia Lộc nhung để ôn bổ Thận dương, bệnh nặng thì âm lạnh như băng, hàn sán teo quắt bộ phận sinh dục thì nên ôn dương tán hàn, dùng phương Thập bổ hoàn hoặc Ngô thù du thang gia giảm.

Hình ảnh Quế nhục
Quế nhục- Vị thuốc trợ Mệnh môn hỏa

Âm lạnh do Mệnh môn hoả suy là do nguyên dương Thận bất túc gây nên, biểu hiện ra một loạt hàn chứng. Điều trị nên ôn bổ cố sáp, có chỗ khác nhau rõ rệt với loại âm lạnh do Can kinh thấp nhiệt. Âm lãnh do Can kinh thấp nhiệt thì điều trị theo phép thanh lợi thấp nhiệt ở Can kinh, chính như Trương Thị y thông- Tiền âm chư tật có nói: “Âm nuy nhược mà ngoại Thận lạnh, (mồ hôi ở âm bộ ra đẫm ướt, sau khi tiểu tiện còn sót bãi có mùi khai, xương chậu và tiền ấm lạnh, ố hàn mà ưa nóng, gối cũng lạnh, đó là Can kinh thấp nhiệt. Nên dùng Long đởm tả Can thang, Sài hồ thắng thấp thang

IV. Trích dẫn y văn

Bổ Can thang chữa tiền âm như băng giá và ra mồ hôi bộ phận sinh dục (Phương dùng Hoàng kỳ, Nhân sâm, Can cát, Phục linh, Chư linh, Thăng ma, Sài hồ, Quy thận, Khương hoạt, Liên kiều, Hoàng bá, Trạch tả, Xương truật, Thần khúc, Tri mẫu, phòng phong, Trần bì, Cam thảo (Nhân thuật tiện lãm- Nuy bệnh).

Lý Ngọc Lâm – Vương Dục Học