Hoàng Kỳ

  Thuốc bắc

Astragalus membranaceus (Fisch.) Bge.

Hoàng kỳ thuộc dòng cây thảo, sống lâu năm cao từ 50-80cm. Rễ hình trụ, dài, cắm sâu dưới đất, cứng mà dai, khó bẻ, vỏ màu nâu đỏ hoặc nâu vào, lõi rễ màu vàng nhạt ngà trắng. Thân thẳng, nhiều cành. Lá mọc so le, kép lông chim lẻ, gồm 15-25 lá chét hình trứng dài từ 5-23mm, mặt dưới có nhiều lông trắng mịn. Hoa dài hơn lá, mọc thành chùm ở kẽ lá, màu vàng,cuống hoa dài từ 4-12cm, đài hoa hình trụ, ngắn, năm răng không đều. Nhị chia thành 2 bó, bầu nhiều noãn. Quả đậu dẹt dài khoảng 25mm, rộng 9mm, gọn dần về hai đầu, đầu nhọn, bên ngoài có lông ngắn. Quả chứa 5-6 hạt hình bán nguyệt, màu đen. Mùa hoa vào tháng 6-7, mùa quả vào tháng 8-9.

Hình ảnh Cây Hoàng kỳ

Hoàng là hoàng gia, kỳ là cờ hiệu. Hoàng kỳ là vị thuốc đứng đầu về vệ khí giống như lá cờ luôn đi trước.

1.Tên khác:  Miên Hoàng kỳ, Tiễn kỳ, Khẩu kỳ, Bắc kỳ,Đại hoàng kỳ, thổ hoàng kỳ, 黃其.

2. Tên khoa học: Astragalus membranaceus (Fisch.) Bge.

3. Bộ phận dùng: Rễ cây.

4. Nơi sống và thu hái
Việt Nam: đã được di thực vào Việt Nam, song số lượng rất ít, được thử n ghiệm tại Sa Pa và Đà Lạt.

Trung Quốc: Mọc hoang ở khắp Trung Quốc, thường thấy ở các tỉnh Diên An, Du Lâm, Bửu Kê, Đông Bắc, Hoa Bắc, Tây Bắc, Tứ Xuyên.

Thu hoạch vào mùa thu khi cây được 3 tuổi, lấy rễ, rửa sạch,phơi hoặc sấy khô.

5. Phương pháp bào chế và bảo quản:

Bước 1: Rửa sạch,loại bỏ tạp chất.

Bước 2: Ủ ẩm.

Bước 3: Đập dập thân.

Bước 4: Tước nhỏ thành lát từ 2-4cm.

Bước 5: Phơi khô.

Cách làm chích hoàng kỳ

Dùng Sinh kỳ phơi khô,tẩm mật ong theo tỉ lệ 100g Sinh Hoàng Kỳ :20-30ml mật, ủ cho thấm mật rồi sao vàng.

Bảo quản: Để nơi khô ráo, độ ẩm thấp. Chích kỳ không nên để lâu.

6. Mô tả dược liệu:

Hình ảnh Vị thuốc Hoàng Kỳ
Vị thuốc Hoàng Kỳ

Hoàng kỳ rễ sau khi phơi khô có hình trụ, rắn và có bột, ít khi phân nhánh, trên thô dưới nhẵn, dài 30-60cm, đường kính 1,5-3,5cm. Mặt ngoài màu vàng tro hoặc nâu xám, có những vân dọc. Mặt bẻ có những sợi cứng và xơ. Chất mềm xốp và cứng, vỏ ngoài màu trắng, chính giữa màu trắng vàng, giữa hai lớp có vòng màu nâu nhạt, có nhiều củ có khe từ chính giữa phát lan ra. Rễ to mập nhiều thịt ít xơ, dai bền, ruột vàng là tốt.

Có thứ vỏ đen (trên thương trường gọi là Hắc kỳ) thịt vàng. Có thứ còn non (tên thương trường gọi là Nộn kỳ) thịt trắng nhiều bột không xơ là thứ thượng phẩm. Có khi người ta giả Hắc kỳ bằng cách nhuộm đen Hoàng kỳ, nhưng khi rửa thì hết đen (Danh Từ Dược Vị Đông Y).

7. Thành phần hóa học:

  • Polysaccharid: 3 astragalan I, II, III; 2 glucan (AG-1 và AG-2) và 2 heterosacharid (AH-1 và AH-2).
  • Saponin: gồm 9 astragalosid và isoastragalosid: astragalosid I, astragalosid II, astragalosid III, astragalosid IV, astragalosid V, astragalosid VI, astragalosid VII, isoastragalosid I, isoastragalosid II và 2 saponin kiểu olean: astragalosid VIII và soyasaponin I. Trong đó, astragalosid IV là chất chính và đã được đưa vào kiểm soát trong chỉ tiêu định tính, định lượng dược liệu Hoàng kỳ.
  •  Isoflavonoid: Các isoflavonoid chính gồm có Calycosin, Calycosin-7-O-β-D-glucosid, formononetin và ononin; trong đó Calycosin-7-O-β-D-glucosid chiếm tỉ lệ cao nhất và cũng được dùng làm chất điểm chỉ trong định lượng dược liệu Hoàng kỳ.

Ngoài ra, Hoàng kỳ còn có amino acids saccaroza, nhiều loại acid amin, protid (6,16 -9,9%), cholin, betatain, acid folic, vitamin P, amylase.

8. Tác dụng dược lý

Tác dụng tăng cường chức năng miễn dịch của cơ thể: Hoàng kỳ làm tăng chức năng thực bào của hệ thống tế bào lưới, nếu cùng dùng với Linh chi, Đảng sâm thì tác dụng càng rõ. Người sau khi cho uống nước sắc Hoàng kỳ, IgE và cAMP trong máu tăng lên rõ, SiaA trong nước miếng giảm rõ. Hoàng kỳ và Polysaccharide của nó có khả năng làm cho tế bào tương của lách súc vật tăng sinh, thúc đẩy sự hình thành kháng thể và nâng cao tính miễn dịch của thể dịch.

Hoàng kỳ không những làm tăng làm tăng cường chức năng miễn dịch mà còn có tác dụng điều tiết miễn dịch. Theo Y học cổ truyền, tác dụng bổ khí phò chính của Hoàng kỳ là có liên quan mật thiết với khả năng nâng cao và điều tiết tính miễn dịch của cơ thể và tác dụng duy trì sự cân bằng nội môi của thuốc. Có tác giả cho rằng tác dụng bổ khí, cường tráng cơ thể của Hoàng kỳ còn do thuốc có tác dụng như nội tiết tố tình dục và tác dụng hưng phấn hệ thần kinh trung ương.

Tác dụng thúc đẩy quá trình chuyển hóa trong cơ thể: làm thí nghiệm mỗi ngày, thụt vào dạ dày chuột nhắt nước sắc Hoàng kỳ trong 3 tuần, chuột khỏe lên. Hoàng kỳ dùng trong nuôi dưỡng tế bào làm cho tế bào sinh trưởng nhanh, số lượng tế bào họat động tăng lên nhiều, tuổi thọ kéo dài. Nghiên cứu thực nghiệm cũng cho thấy thuốc làm tăng cường chuyển hóa sinh lý của tế bào, tác dụng này có thể do thuốc có tác dụng điều chỉnh cAMP và cGMP trong tế bào. Hoàng kỳ có thể thúc đẩy sự chuyển hóa protid của huyết thanh và gan, đây cũng là 1 mặt quan trọng của tác dụng dược lý “phò chính” của thuốc.

Tác dụng lợi tiểu: nước sắc và cao lỏng Hoàng kỳ đối với súc vật thực nghiệm ( chuột cống, thỏ, chó) và người thường đều có tác dụng lợi tiểu rõ rệt. Súc vật sau khi uống thuốc, lượng nước tiểu tăng 64% ( Tạp chí Y học Trung quốc 47:7-11,1961), nhưng phạm vi liều lượng có hiệu quả hẹp, liều thấp không có tác dụng, ngược lại liều quá cao lại làm cho nước tiểu giảm ( tác dụng hạ áp và lợi tiểu của Hoàng kỳ, Dược học học báo12(5),319-324, 1965).

Thuốc có tác dụng làm tăng lực co bóp của tim đối với trạng thái suy tim do mệt mỏi hoặc do nhiễm độc, tác dụng cường tim của thuốc càng rõ. Dịch tiêm Hoàng kỳ có tác dụng 100% làm mạch co bóp và làm nhanh nhịp tim cô lập của thỏ.

Tác dụng hạ áp: nước sắc, cao lỏng, cồn Hoàng kỳ tiêm dưới da hay tĩnh mạch cho súc vật đã gây mê (chó, mèo, thỏ) đều có tác dụng hạ áp nhanh, nhưng thời gian ngắn, tác dụng hạ áp có thể do thuốc làm giãn mạch ngoại vi. Thí nghiệm trên chuột bạch, chuột lang còn chứng minh thuốc có tác dụng tăng sức đề kháng của mao mạch, do đó có thể đề phòng hiện tượng thẩm thấu của mao mạch tăng mạnh do clorofoc, histamin tạo nên.

Giảm đạm niệu: Trên lâm sàng đã chứng minh Hoàng kỳ cùng dùng với Đảng sâm trị đạm niệu do viêm thận có kết quả. Trong điều trị thận hư nhiễm mỡ, nên dùng liều cao thuốc có tác dụng làm giảm đạm niệu. Có báo cáo dùng thuốc bột Hoàng kỳ tốt hơn ( trích luận văn Hội nghị khoa học sinh lý toàn quốc Trung quốc lần thứ 2, trang13,1963).

Tác dụng kháng khuẩn: Trong ống nghiệm, thuốc có tác dụng kháng khuẩn đối với trực khuẩn lî Shigella, liên cầu khuẩn dung huyết, phế cầu, tụ cầu vàng ( in vitro antibacterial activety of some common Chinese herba on Gram-positive aerobic bacteria, Chin.Med J.67:648-656,1949).

Dịch tiêm Hoàng kỳ có tác dụng hưng phấn co bóp tử cung cô lập của chuột cống 100%. Nước sắc Hoàng kỳ có tác dụng ức chế ruột cô lập của thỏ Polysaccharide Hoàng kỳ có tác dụng kháng tế bào ung thư. Dịch tiêm Hoàng kỳ trong ống nghiệm có tác dụng tăng trưởng xương đùi của phôi thai gà.

Ngoài ra, theo báo cáo của Trương Trạch và Cao Kiều (1940), Hoàng kỳ có tác dụng làm cho kỳ động tinh của chuột bạch thông thường là 1 ngày kéo dài thành 10 ngày.

Thuốc còn có tác dụng bảo vệ gan, chống giảm sút glycogen ở gan ( trích luận văn báo cáo tại Hội nghị học thuật của Hội Dược học Trung quốc năm 1962, trang 332-333, 1963)

9. Hoàng kỳ trong y học cổ truyền

Khí vị: vị ngọt hơi ấm không độc, thăng được, giáng được,phù được mà trầm được.

Quy kinh: Thủ Dương Minh Đại Trường, Thủ Thái Âm Phế, Túc Thái Âm Tỳ.

Công năng:

Sinh hoàng kỳ: Ích vệ, cố biểu, lợi thủy, tiêu thủng, thác độc, sinh cơ.

Chích hoàng kỳ: Bổ trung ích khí.

Chủ trị:

  • Bổ khí thăng dương: Tỳ khí hư nhược; Khí bất nhiếp huyết; Trung khí huyết hạ hãm; Tỳ phế khí hư; Khí huyết lưỡng suy;Khí hư phát nhiệt; Di chứng trúng phong; Huyết tý tê dại chân tay
  • Cố biểu chỉ hãn
  • Lợi thủy tiêu thũng
  • Thác sang sinh cơ

Kiêng kỵ: các chứng dương thịnh âm hư, thượng tiêu rất nhiệt, hạ tiêu hư hàn, can khi không hòa, hỏa đưa lên phế gây ho, âm hỏa xông nên mà thổ huyết đều không dùng.

Lưu ý: Hoàng Kỳ ghét Miết giáp, Bạch Tiên Bì: dùng chung mất công hiệu

  •           Hoàng Kỳ sợ Phòng Phong: Làm mất độc tính của Phòng Phong.
  •           Phục Linh làm sứ cho Hoàng Kỳ.

Liều dùng: thông thường từ 4-24g, một số trường hợp dùng liều cao từ 30-120g

10. Ứng dụng lâm sàng

Trị phong thấp, mạch Phù, cơ thể nặng, sợ gió, ra mồ hôi:

Bạch truật 30g, Cam thảo 20g, Hoàng kỳ 40g, Phòng kỷ 40g. Tán bột. Mỗi lần dùng 20g, thêm Gừng 4 lát, Táo 1 trái, sắc uống.(Phòng Kỷ Hoàng Kỳ Thang – Kim Quỹ Yếu Lược).

 Trị huyết tý, âm dương đều yếu, mạch bộ thốn và quan đều Vi, bộ xích Tiểu, Kết, bên ngoài cơ thể mất cảm giác, giống như chứng phong tý:

Hoàng kỳ, Quế chi, Thược dược đều 120g, Sinh khương 240g, Táo 12 trái. Sắc, chia ra uống (Hoàng Kỳ Quế Chi Ngũ Vật Thang – Kim Quỹ Yếu Lược).

 Trị vàng da do nghiện rượu, vùng dưới tim đau, chân sưng, tiểu vàng, hoặc uống rượu sinh ra những nốt vàng đen đỏ ở da, do say rượu quá mà gặp gió và nước mà gây ra:

Hoàng kỳ 80g,Mộc lan 40g, tán bột, uống mỗi lần 8g với rượu, ngày 3 lần (Trửu Hậu phương).

 Trị tiêu khát:

Can địa hoàng 200g Chích thảo 120g, Hoàng kỳ 120g, Mạch môn (bỏ lõi) 120g, Phục thần 120g, Quát lâu 120g, sắc uống ( Hoàng Kỳ Thang – Thiên Kim phương).

 Trị móng tay lở sưng tấy ở hai bên ngón tay ngón chân, lòi thịt đỏ:

Hoàng kỳ 80g, Lan nhự 120g, ngâm với giấm 1 đêm, thêm mỡ Heo 5 chén nhỏ, sắc với lửa nhỏ còn 3 chén, bỏ bã, bịt ở trên chỗ lở loét, ngày 3 lần thay, thịt đó sẽ tiêu (Ngoại Đài Bí Yếu).

 Trị Phế ung, thổ ra huyết:

Hoàng kỳ 80g,tán bột, mỗi lần dùng 8g sắc vớinước uống lúc còn nóng. Ngày uống 3-4 lần (Thánh Huệ Phương).

 Trị các chứng hư, bất túc, chân tay mỏi mệt, ngực phiền, hồi hộp, tiêu khát, miệng môi khô, sắc mặt vàng úa, không muốn ăn uống hoặclúc đầu khát mà sau phát ghẻ nhọt, hoặc bị mụn nhọt rồi sinh ra khát:

Chích thảo 40g, Hoàng kỳ (nướng mật) 240g, Gĩa nát, mỗi lần dùng 8g, thêm Táo 1 trái, sắc uống (Hoàng Kỳ Lục Nhất Thang – Cục Phương).

 Trị người gìa tức mệt, bứt rứt:

Miên Hoàng kỳ, Trần bì (bỏ xơ trắng), mỗi thứ 20g, tán bột, mỗi lần uống 12g,Vừng (Mè) 1 chén nhỏ, nghiền nát, lọc như tương, sắc cho tới khi thấy có nổi như sữa mới bỏ vào một thìa mật ong rồi sắc tiếp. Uống lúc đói, thuốc này dược tính bình hòa không lạnh không nóng, uống vào không bị bí tắc, hiệu quả như thần (Hòa Tễ Cục Phương).

Trị nôn ra máu không dứt:

Hoàng kỳ 10g, Tử bối phù bình 20g,tán bột, mỗi lần uống 4g với nước Gừng và Mật (Thánh Tế Tổng Lục).

Trị mồ hôi tự ra:

Bạch truật 80g, Hoàng kỳ 40g, Phòng phong 40g. Tán bột.Mỗi lần dùng 12g, thêm Gừng 3 látsắc uống (Ngọc Bình Phong Tán – Đan Khê Tâm Pháp).

 Trị ung thư (mụn nhọt) lâu ngày có mủ mà không vỡ ra:

Đương quy 8g, Hoàng kỳ 16g, Tạo giác thích 6g, Xuyên khung 12g, Xuyên sơn giáp (sao) 4g, Sắc uống. (Thấu Nùng Tán – Ngoại Khoa Chính Tông).

 Trị ung thư (mụn nhọt) phá mủ mà vết thương không gom miệng:

Cam thảo 8g, Hoàng kỳ 12g, Mẫu lệ 12g, Ngũ vị tử 4g, Nhân sâm 12g, Phục linh 12g, Sinh khương 12g. Sắc uống ấm(Hoàng Kỳ Nhân Sâm Mẫu Lệ Thang – Tứ Thánh Tâm Nguyên).

 Trị tiểu không thông:

Miên hoàng kỳ 8g, nước 2 chén, sắc còn 1 chén, uống nóng. Trẻ con dùng phân nửa (Tổng Vi Luận)

Trị bạch trọc do khí hư:

Hoàng kỳ (sao với muối) 20g, Phục linh 40g,tán bột, mỗi lần uống 8g với nước, lúc đói (Hoàng Kỳ Tán – Kinh Nghiệm Lương Phương).

Trị khát,bổ hư, nam nữ suy nhược, hồi hộp, đái đường, sắc mặt vàng úa, không ăn uống được, hoặc trước khát sau lở nhọt, hoặc trước lở nhọt sau khát (tiêu khát), nên uống thường thuốc này để bổ khí huyết và an hòa ngũ tạng lục phủ, phòng chống được các loại bệnh ung thư:

Miên hoàng kỳ (cắt bỏ đầu đuôi) 240g, trong đó lấy một nửa sấy khô, tán bột, Phấn cam thảo 40g, trong đó 20g dùng sống, 20g sao vàng tán bột. Mỗi lần uống 8gvới nước sôi, ngày 3 lần, hoặc có thể sắc uống (Hoàng Kỳ Lục Nhất Thang– Ngoại Khoa Tinh Yếu Phương).

 Trị trường phong, tả huyết:

Hoàng kỳ, Hoàng liên, lượng bằng nhau. Tán bột, trộn với bột miến làm hoàn, uống (Tế Sinh Phương).

 Trị cơ bị nhiệt, táo nhiệt, mắt đỏ, mặt hồng, mạch Hồng Đại mà Hư:

Hoàng kỳ 40g, Đương quy (tẩy rượu) 8g, sắc uống lúc đói. (Đương Quy Bổ Huyết Thang – Nội Ngoại Thương Biện Hoặc Luận).

Trị tiểu ra máu khi buốt rát đau không chịu nổi:

Hoàng kỳ, Nhân sâm, liều lượng bằng nhau,tán bột, lấy 1 củ Đại la bặc (củ cải lớn), sắc ra 45 miếng (bằng ngón tay lớn), tẩm với 80gmật, sao cho tới khi nào hết mật. Chấm bột thuốc ăn khi nào cũng được hoặc uống với nước muối (Vĩnh Loại Kiềm Phương).

 Trị ho ra máu mủ, vì trong hư có nhiệt, không thể dùng thuốc mát được:

Cam thảo 40g, Hoàng kỳ tốt 160g, tán bột, mỗilần uống 8gvới nước nóng (Tịch Duyên Thưởng Phương).

Trị cơ quan sinh dục ngứa:

Hoàng kỳ, Nhân sâm, mỗi thứ 40g, tán bột, Long não tốt 4g,dùng nước cốt ngó sen làm viên bằng hạt đậu xanh, mỗi lần uống 20 viên với nước nóng (Bản Sự Phương).

Trị chóng mặt,hoa mắt, cơ thể suy yếu, ít ăn và rong kinh băng huyết, sa trực trường, sa tử cung do khí hư:

Bạch truật, Cam thảo, Đảng sâm,Đương quy, Hoàng kỳ mỗi thứ 12g, Sài hồ 6g, Thăng ma 4g, Trần bì 6g, Sắc uống (Bổ Trung Ích Khí Thang – Tỳ Vị Luận).

Trị phát sốt do huyết hư và chứng muốn thoát do huyết hư sau khi mất máu nhiều:

Hoàng kỳ 40g, Đương quy 8g. Sắc, thêm một ít Đồng tiện uống (Đương Quy Bổ Huyết Thang – Nội Ngoại Thương Biện Hoặc Luận).

Trị mụn nhọt do khí huyết bất túc, sưng tấy lở loét hãm vào không lành được hoặc lâu ngày không lành:

Bạch truật 8g, Cam thảo 4g, Đương quy 12g, Hoàng kỳ 16g, Kim ngân hoa 16g, Tạo giác thích, Thiên hoa phấn, Hoàng kỳ mỗi thứ 12g, Xuyên khung 8g, sắc uống (Hoàng Kỳ Nội Thác Tán – Y Tông Kim Giám).

Cam thảo 6g, Đương quy 16g, Hoàng kỳ, Kim ngân hoa mỗi thứ 20g, Sắc uống (Tứ Diệu Thang – Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).

Trị khớp đau do cơ thể suy nhược, phong thấp:

Bạch thược 120g, Hoàng kỳ 120g,Quế chi 120g, Sinh khương 240g, Đại táo 12 trái (Hoàng Kỳ Quế Chi Ngũ Vật Thang -Kim Quỹ Yếu Lược).

Trị các chứng suy nhược cơ thể do tỳ khí hư nhược, mệt mỏi kém ăùn hoặc các chứng tiêu chảy kéo dài, rong kinh, sa tử cung, sa trực trường: dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang:

Hoàng kỳ, Đảng sâm, Bạch truật, Đương qui mỗi thứ 12g, Thăng ma 4g, Sài hồ, Trần bì mỗi thứ 6g, Cam thảo 4g, sắc nước uống, thuốc có tác dụng bổ khí, thăng dương (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).

Trị sa dạ dày:

Dùng Hoàng kỳ (sống), Thăng ma, Sài hồ, Ngũ vị tử chế thành dịch tiêm ‘Thăng Tạng Linh’, mỗi lần tiêm bắp 4ml, ngày 2 lần hoặc tiêm huyệât Trung quản, Túc tam lý mỗi huyệt 0,5ml cách nhật, l tháng là l liệu trình, có kết hợp thuốc trị các bệnh khác, sau khi ăn, bệnh nhân nằm nghỉ. Trị 33 ca bao tử sa, kết quả khỏi 9 ca, tốt 9 ca, có kết quả 10 ca, tỷ lệ kết quả 84,9% (Tổ Tiêu Hóa Nội Khoa Thuộc Sở Nghiên Cứu Trung Y Tỉnh Thái Nguyên –‘Tiểu Kết 42 Ca Bao Tử Sa Điều Trị Bằng ‘Thăng Tạng Linh’, Sơn Tây Y Dược Tạp Chí 1978, 2: 31).

 Trị trực trường sa, lòi dom:

Dùng Hoàng kỳ 30-50g phối hợp với Đan sâm 15g, Sơn tra nhục 10g, Phòng phong, Thăng ma mỗi thứ 3g, sắc nước uống mỗi ngày l thang, dưới 3 tuổi giảm liều. Nếu có lòi ra ngoài, thêm Thuyền thoái, Kinh giới (than), Băng phiến tán bột trộn với Hương dầu bôi trị sa trực trường, kết quả tốt (Vương Chí Thanh, Trị Sa Trực Trường Bằng Thuốc’, Sơn Đông Trung Y Tạp Chí 1983, 2: 43).

Phòng cảm mạo:

Dương Vĩnh Phương và cộng sự dùng Hoàng kỳ 15g, Đại táo 10g, chế thành thuốc bột chia làm 2 bao hòa nước uống, người lớn mỗi lần l bao, ngày 2 lần. Đã theo dõi 160 ca chứng minh thuộc có tác dụng phòng chống cảm mạo nhẹ phát sinh, hạ thấp tỷ lệ bệnh viêm Phế quản, hen phế quản, viêm mũi dị ứng (Hồ Nam Trung Y Học Viện Học Báo 1987, 4: 13).

Trị dạ dày loét,hành tá tràng loét:

Huệ Quang Hỷ dùng bài Hoàng Kỳ Kiến Trung Thang Gia Giảm trị 43 ca dạ dày hành tá tràng viêm loét:: Hoàng kỳ 12g, Bạch thược 12g, Cam thảo 5g, Quế chi 10g, Sinh khương 3g, Đại táo 5 quả, Đường phèn 30g, sắc nước, chia 2 lần uống, tùy chứng gia giảm, tất cả bệnh nhân đều được chụp X-quang trước và sau uống thuốc. Kết quả sau thời gian dùng thuốc từ 25 đến 53 ngày, 22 ca khỏi, 17 ca tiến bộ, 4 ca không kết quả, tỷ lệ có kết quả 90,7% (Hồ Nam Y Dược Tạp Chí 1977, 2: 35).

Trị bệnh gan mạn tính:

Hậu Thế Vinh và cộng sự dùng dịch tiêm Sâm Kỳ mỗi 1ần tiêm bắp 4ml (mỗi ml có 2g thuốc sống) Hoàng kỳ, 1g Đan sâm, ngày l lần, mỗi tuần tiêm 6 lần, một liệu trình 3 tháng. Đã trị 112 ca trong đó có 58 ca chỉ dùng thuốc này và phối hợp Vitamin, kết quả trước mắt 83% thuốc có tác dụng tốt hơn đối với bệnh viêm gan mạn kéo dàl, tỉ lệ kết quả 89,5% có triệu chứng cải thiện và chức năng gan hồi phục tốt (Trung Thảo Dược 1980, 12: 551).

Trị nhũn não:

Trương Học Văn và cộng sự dùng ‘Thông Mạch Sơ Lạc Dịch’ (Hoàng kỳ, Đơn sâm, Xuyên khung, Xích thực) 250ml truyền tĩnh mạch mỗi ngày, 10 ngày là một liệu trình, nghỉ 4 ngày, tiếp tục liệu trình hai, đồng thời mỗi ngày sắc uống bài Thông Mạch (Hoàng kỳ, Hồng hoa, Xuyên khung, Đơn sâm, Sơn tra, Ngưu tất, Địa long, Quế chi). Trị 110 ca nhũn não, khỏi 52 ca, kết quả tốt 36 ca, tiến bộ 20 ca, tỉ lệ kết qủa 98,2%(Tân Trung Y Tạp Chí 1982, 3: 37).

Trị chứng bạch cầu giảm:

Phùng Vân Trung dùng bài: Hoàng kỳ (sống) 30g, Điều sâm 15g, Tiểu hồng táo 20 quả, sắc uống, trị chứng bạch cầu giảm do Dibazol 14 ca có kết quả tốt (Vân Nam Trung Y Tạp Chí 1980, 2: 28).

Trị bệnh thận:

Tổ nghiên cứu viêm thận thuộc Sở Nghiên cứu Y Dược dân tộc tỉnh Hắc Long Giang dùng độc vị Hoàng kỳ chế thành cao lỏng, mỗi ngày uống tương đương lượng 100g thuốc sống, chia 2 lần. Thời gian điều trị từ 15 ngày đến 3 tháng, không dùng các loại thuốc Tây. Đã trị viêm thận mạn 20 ca, kết quả tốt 7 ca, tiến bộ 9 ca, không kết quả 4 ca. Phần lớn bệnh nhân triệu chứng lâm sàng được cải thiện, đạm niệu hết hoặc giảm (Hắc Long Giang Trung Y Dược Tạp Chí 1982, l: 39).

11. Phân biệt các cây khác

Cây Hoàng kỳ Mông Cổ

Tên khoa học: [Astragalus membranaceus (Fisch.) Bge. var. mongholicus (Bge.) Hsiao]:

Mô tả: Rất giống loại trên hoàng kỳ ở trên nhưng khác bởi lá chét nhỏ hơn, 12-18 đôi lá chét, tràng hoa dài hơn, quả rộng hơn 1,1-1,5 cm, không có lông. Mùa hoa vào các tháng 6-7, mùa quả vào các tháng 7-9.

Công dụng giống Hoàng Kỳ

Hoàng Kỳ Nam: Cây vú bò

Tên khoa học: Ficus heterophyllus L., họ Dâu tằm (Moraceae) 

Hình dáng, công dụng khác hoàn toàn cây Hoàng Kỳ