I.Tổng quan
Khái niệm: Tiểu tiện ra tinh là chỉ chứng trong nước tiểu có lẫn lộn cả tinh dịch hoặc sau khi tiểu tiện tinh dịch chảy theo ra.
Chứng này, Tố vấn – Nuỵ luận gọi là “Bạch dâm”; sách Chư bệnh nguyên hậu luận – Hư lao bệnh chư hậu gọi là “Niệu tinh”, sách Chứng trị yếu quyết– Lâm gọi là “Tinh trọc” và “Tinh niệu câu xuất”, sách Cảnh Nhạc toàn thư và Loại chứng trị tài gọi là “Bạch trọc” cũng bao gồm cả chứng tiểu tiện ra tinh ở trong.
Chứng tiểu tiện ra tinh với chứng Tiểu tiện vẩn đục khác nhau. Tiểu tiện vẩn đục là chỉ nước tiểu vẩn đục, có rất nhiều nguyên nhân; còn chứng này cũng có thể làm cho nước tiểu vẩn đục nhưng có chỗ khác với loại tiểu tiện vẩn đục thông thường.
Chứng hậu thường gặp
- Tiểu tiện ra tinh do thấp nhiệt ấp ủ ở trong: Có chứng tiểu tiện sẻn đỏ hoặc vẩn đục, bài tiết khó khăn có cảm giác nóng rít hoặc đau buốt, sau khi tiểu tiện, miệng niệu đạo thường rỉ ra dịch trắng sữa hoặc đục như hồ, giỏ giọt không dứt, trong ống sáo cảm thấy nóng và ngứa hoặc kèm theo di tinh hoạt tinh, có khi đắng miệng, khát nước ngực bụng bĩ đầy, đại tiện khó đi, lưỡi đỏ rêu vàng nhớt, mạch Nhu Sác.
- Tiểu tiện ra tinh do âm hư hoả vượng:Có chứng tiểu tiện sẻn vàng cảm giác nóng, nước tiểu không trong hoặc sau khi tiểu tiện xong miệng niệu đạo còn tiết ra chất đục mầu hồng, kiêm chứng di tinh trong khi ngủ, đêm ngủ không yên, đầu mắt choáng váng, ban đêm khô họng, gò má đỏ, môi đỏ, ngũ Tâm phiền nhiệt, triều nhiệt mồ hôi trộm, lưỡi đỏ rêu lưỡi mỏng, mạch Tế Sác.
- Tiểu tiện ra tinh do Thận hư không kín đáo: Có chứng tiểu tiện trong dài hoặc đi nhiều lần, tiểu tiện xong có sợi tinh dịch chẩy ra, bài tiết không đau, thường kiêm chứng di tinh, hoạt tinh, mặt nhợt không tươi, đầu choáng mắt hoa, tai ù tai điếc, vai lưng đau mỏi, sợ lạnh, tay chân lạnh, lưỡi nhạt ít rêu, mạch Trầm Tế.
II. Phân tích
1.Chứng Tiểu tiện ra tinh do thấp nhiệt ấp ủ ở trong:
Nguyên nhân: Phần nhiều do hay ăn đồ béo ngọt, nung nấu thành thấp nhiệt ở Trung tiêu dồn xuống Hạ tiêu, quấy rối tinh thât theo nước tiểu mà chẩy ra. Thấp nhiệt nung nấu tinh dịch biến thành vữa nát làm nghẽn tắc ống sáo cho nên bài tiết ra khó khăn, bài tiết ra như nước vo gạo hoặc vẩn đục như hồ, Hạ tiêu thấp nhiệt, Bàng quang mất chức năng cho nên tiểu tiện sẻn đỏ mà có cảm giác nóng rít, thường biểu hiện các kiêm chứng như miệng đắng khát nước, ngực bụng bĩ đầy, đại tiện khó đi, Chứng này là chứng lý thực nhiệt có đặc điểm là bại tinh có lẫn nước tiểu, tiểu tiện vẩn đục khá nặng, đồng thời có cả kiêm chứng Lý nhiệt.
Điều trị nên lấy phép thanh nhiệt lợi thấp là chính, chọn dùng phương Trình thị Tỳ giải phân thanh ẩm, đợi sau khi thấp nhiệt lui dần mới linh hoạt dùng thuốc cố sáp.
2.Chứng Tiểu tiện ra tinh do âm hư hoả vượng với chứng Tiểu tiện ra tinh do Thận hư không kín đáo
Âm hư hoả vượng | Thận hư không kín đáo | |
Nguyên nhân | Do thể trạng vốn âm hư, phòng thất không điều độ, bệnh nhiệt thương âm đến nỗi tướng hoả động sằng, quấy rối tinh thất làm cho tiểu tiện ra tinh | Do ốm lâu không khỏi tổn thương chính khí hoặc do di tinh, hoạt tinh kéo dài, âm tổn hại liên luỵ đến dương dẫn đến Thận khí không bền mất sự kín đáo, tinh quan không bền, tinh dịch lẫn lộn vào nước tiểu mà thành chứng tiểu tiện ra tinh |
Yếu điểm phân biệt | Thận âm hư ở cửa niệu đạo vướng chất đục, thường biểu hiện các chứng đêm ngủ không yên, ngũ Tâm phiền nhiệt, tiểu tiện sẻn vàng .v.v… | Thận dương hư sau khi tiểu tiện còn chầy ra những sợi tinh dịch, không đau, lại thường biểu hiện các kiêm chứng sắc mặt kém tươi, cơ thể lạnh sợ lạnh, tiểu tiện nhiều lần hoặc trong dài. |
Điều trị | Phép tư âm giáng hoả, cố Thận sáp tinh, dùng phương Trị bá địa hoàng hoàn hoặc Tam tài phong tuỷ đan linh hoạt gia các vị cố sáp. | Phép bổ Thận cố tinh,chọn dùng phương Đại Thỏ ty tử hoàn hoặc Hữu quy hoàn, Kim quỹ Thận khí hoàn gia vị. |
Chứng Tiểu tiện ra tinh, có cả hư lẫn thực, nhưng thường gặp trên lâm sàng thì hư nhiều thực ít.
III.Trích dẫn y văn
Chứng Cân sán có hiện tượng âm hành sưng trướng hoặc vỡ hoặc gây mủ, hoặc đau mà lý cấp gân co rút, hoặc đau ống sáo, đau quá thì gây ngứa, hoặc buông thõng không co lên hoặc ra vật trắng như tinh theo tiểu tiện mà tiết ra, do bệnh lâu ngày hoặc lao thương về phòng thất và tà thuật sui khiến, nên dùng thang thuôc giáng Tâm mà hạ bỏ đi (Nho môn sự thân – Sán bản Can kinh nghi thông vật tắc trạng).
Có chất vẩn đục ở tinh là do tướng hoả vọng động tinh rời vị trí không khả năng cất giữ ra theo nước tiểu ,hoặc chuyển nhiệt xuống Bàng quang, lỗ đái đau rít đó là bạch trọc mà nguyên nhân do nhiệt. Lâu ngày thì Tỳ khí hạ hãm, thể không lợi thấp mà thủy đạo không trong, có tướng hoả tác hại, Tâm Thận bất giao mà di với trọc không dứt, đó là bạch trọc mà nguyên nhân là do hư, Nhiệt thì nên phân biệt Tâm Thận mà dùng phép thanh, Hư thường phải tìm ở Tỳ Thận mà củng cố và nâng lên (Loại chứng trị tài – Lâm trọc).