Đương quy là thuốc chủ yếu của huyết phận, cay ấm mà tán, là khí ở trong huyết dược, cho nên khí huyết mà loạn uống vào thì yên, có khả năng lệnh cho tất cả các huyết đều trở về kinh mạch đáng lý phải về, cho nên mệnh danh là “Đương quy”.
1.Tên gọi: Đương quy tàu, Vân quy, Tần quy.
2. Tên khoa học: Angelica sinensis (Oliv) Deils Họ: Apiaceae.
3. Mô tả:
Cây thân thảo kích thước lớn, sống lâu năm, cao trung bình từ 40 – 60cm, khi cây có hoa có thể đến 1m. Thân xẻ rãnh dọc hình trụ, màu tím. Lá mọc so le, xẻ lông chim 3 lần, gốc phát triển thành bẹ to, đầu nhọn, lá chét phía dưới có cuống, lá chét gắn đầu lá không cuống, mép chia thùy và răng cưa không đều.
Cụm hoa mọc ở ngọn thành tán kép gồm 12 – 20 tán, dài ngắn không đều, hoa nhỏ màu lục nhạt.
Quả bế dẹt, có rìa màu tím nhạt.
Toàn thân nhẵn và có mùi thơm đặc biệt.
Mùa hoa quả : tháng 7 – 8.
5. Phân bố và thu hoạch
Việt Nam: các tỉnh vùng Tây Bắc như Lào Cai, Hòa Bình, Lai Châu và ở Tây Nguyên như Đà Lạt, Lâm Đồng…
Trung Quốc: Cam Túc, Tứ Xuyên, Vân Nam, Thiểm Tây, Quý Châu và Hồ Bắc. Trồng trọt khắp nơi. Chủ yếu được sản xuất tại Cam Túc và Vân Nam. Ngoài ra, Thiểm Tây, Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Quý Châu và những nơi khác cũng được sản xuất.
Thu hoạch rễ vào mùa thu.
6. Bào chế và bảo quản
Theo Trung Y: Rửa sạch bằng rượu cắt bỏ đầu, thái mỏng tẩm rượu một
Theo kinh nghiệm Việt Nam
Rửa qua hàng rượu nếu không có rượu rửa bằng ít nước cho nhanh, vảy ráo nước ủ một đêm cho mềm, thường đem bào mỏng một ly, (dùng súng, cách này thường dùng)
Nếu rửa bằng nước và muốn để lâu, phải sấy nhẹ qua diêm sinh để chống mốc. Nếu bị mốc thì lấy rượu tẩy đi.
Nếu Quy bé, đồ qua cho mềm, xếp vào nhau, đập bẹ, ép thành miếng to rồi bào, sẽ được miểng Quy to và đẹp.
b) Có thể bào mỏng rồi đem tẩm rượu và nếu cần thì sấy nhẹ lửa. Có người pha rượu với mật ong (1/5) để làm dịu tính cay rồi tẩm.
Bảo quản: Để nơi khô ráo, đựng trong hòm gỗ, có lót ít vôi sống, khi trời ẩm nên mở hòm cho thoáng gió. Khi sấy phơi không dùng sức nóng quả làm mất tinh dầu .
7.Thành phần hóa học
Thành phần chính của dầu dễ bay hơi là: Butylidenephthalide, n-Valerophenone-o-carboxylicacid và △ 2,4-dihydrophthalicanhydride. Thành phần của dầu dễ bay hơi rất phức tạp. Có hơn 10 loại điểm sôi thấp, trong đó có nhiều loại hydrocarbon, trong đó có 3 loại terpen.
Chứa một lượng lớn sucrose (40%), vitamin B12 (0,25-40 microgam / 100 gram), các chất vitamin A (dựa trên vitamin A, tỷ lệ hàm lượng là 0,0675%).
Phần hòa tan trong nước của rễ chứa ferulicacid, succinicacid, nicotinicacid, uracil, adenine, scopoletin và umbelliferone (umbelliferone), vanillicacid và choline, và phần hòa tan ether có chứa falcarinol, falcarinolone và falcarindiol.
8. Tác dụng dược lý
Đương quy có tác dụng 2 chiều đối với tử cung. Chất tan vào nước hoặc cồn không phải tinh dầu có tác dụng hưng phấn tử cung cô lập; còn chất bốc hơi sôi ở nhiệt độ cao và dầu Đương quy có tác dụng ức chế và lúc áp lực trong tử cung cao thì thuốc làm tăng co bóp tử cung. Đương quy còn có tác dụng tăng gia sự tổng hợp protid khiến tử cung dày lên. Đương quy còn có khả năng chống sự thiếu hụt vitamin E phòng ngừa sẩy thai nhưng không thể hiện rõ tác dụng như oestrogen.
Dịch ngâm Đương quy cho chuột nhắt làm tăng huyết sắc tố và hồng cầu. Tác dụng này có quan hệ với hàm lượng vitamin B12 và acid folic trong Đương quy.
Đương quy có tác dụng làm giãn động mạch vành, tăng lưu lượng máu của động mạch vành, giảm tiêu hao lượng oxy của cơ tim, giảm ngưng tập của tiểu cầu, chống sự hình thành huyết khối, có tác dụng làm giảm rối loạn nhịp tim và hạ lipid huyết. Đương quy có tác dụng làm giãn huyết quản ngoại vi, làm dịu co thắt cơ trơn của huyết quản ngoại vi, tăng lưu lượng máu; vì thế mà Đương quy có tác dụng giảm đau . Tinh dầu Đương quy làm huyết áp tăng nhưng chất hòa tan trong nước thì làm hạ huyết áp.
Tác dụng chống viêm: nước chiết xuất Đương quy giảm thấp tính thẩm thấu của huyết quản, ức chế các chất gây viêm của tiểu cầu như 5TH phóng ra.
Tác dụng giảm đau, an thần do tinh dầu Đương quy.
Đương quy có tác dụng làm tăng chức năng miễn dịch không đặc hiệu của cơ thể, tăng khả năng thực bào của đại thực bào, thúc đẩy sự chuyển giãng Lympho bào.Nhưng cũng có người cho rằng Đương quy có tác dụng ức chế miễn dịch.
Có tác dụng lợi tiểu do thành phần đường mía trong Đương quy, cao nước thô của Đương quy có tác dụng hưng phấn đối với cơ trơn ruột non và bàng quang của súc vật thí nghiệm.
Có tác dụng làm giãn cơ trơn phế quản và làm giảm cơn hen (bình suyễn).
Có tác dụng bảo vệ gan, phòng ngừa glycogen gan giảm thấp.
Tác dụng kháng khuẩn: nước sắc Đương quy có tác dụng ức chế các loại trực khuẩn coli, lî, thương hàn, phó thương hàn, phẩy khuẩn tả, trực khuẩn bạch hầu, liên cầu khuẩn tán huyết. Tinh dầu Đương quy có tác dụng ức chế tụ cầu khuẩn vàng, trực khuẩn coli, trực khuẩn lî Flexner, trực khuẩn mủ xanh.
Có tác dụng phòng chống thiếu vitamin E trích yếu văn kiện nghiên cứu Trung dược, nhà xuất bản Khoa học 1965, tr265).
Về tác dụng đối với huyết áp, có tài liệu nói: theo Schmidt, Y Bác An và Trần khắc Khôi (1924, Chinese Med.J 38, 362), tinh dầu của Đương quy có tác dụng hạ huyết áp, nhưng thành phần không bay hơi của Đương quy lại có tính chất làm co cơ trơn ở thành mạch máu làm cho huyết áp tăng cao.
Đương quy có tác dụng nhuận tràng thông tiện.
8. Đương quy trong y học cổ truyền
Khí vị: Vị ngọt, cay, tính ấm, không độc, khí ấm thì thăng lên, vị đậm thì giáng xuống, là thuốc dương trong âm dược.
Quy kinh: Túc Quyết âm Can, Túc thái âm Tỳ và Thủ thiếu âm Tâm.
Công năng: bổ huyết, hoạt huyết, chỉ huyết
Chủ trị: chứng tâm can huyết hư, kinh nguyệt không đều, đau kinh, tắt kinh, các bệnh thai tiền sản hậu, tổn thương do té ngã, đau tê chân tay (tý thống ma mộc), nhọt lở lóet (ung thư sang thương), chứng huyết hư trường táo kiêm trị khái suyễn.
” Khử huyết ứ, sinh huyết mới, giãn gân nhuận trường, gây ấm bên trong, khỏi đau bụng đau dạ, nuôi dưỡng vinh huyết, chữa chân tay khớp xương đau nhức, chữa kiết lỵ, mưng mủ lên da non, trấn thống, các chứng ôn ngược nóng lạnh, năm chứng lao bảy chứng tổn thương, có thể điều kinh, khu phong, chữa băng huyết rong huyết, khí hư đới dạ, rất thích hợp với các bệnh về huyết khi có thai, bổ hư cho đàn bà đẻ rất chóng, đại phàm trong các bài bổ khí huyết. Đương quy là vị chủ yếu, bổ được công cũng được, tất thảy các chứng khô táo sáp trệ và tiêu hao, thì nhất định phải dùng Đương quy cho vào thuốc hoàn, vừa lưu hành vừa cố thủ, huyết trệ có thể tan, huyết hư có thể bổ, huyết táo có thể nhuận, huyết tán có thể quy tụ về, thật là thuốc chủ yếu chữa bệnh về huyết vậy”
(Dược phẩm vậng yếu- Hải Thượng Lãn Ông y Tâm lĩnh)
Hợp dụng:
- Đương quy sợ Xương bồ, Hải tảo, Sinh khương.
- Đương quy ghét Tử sâm, Lư nhự và bột mỳ ướt
- Xuyên khung Tế tân làm thuốc dẫn thì chữa được chứng nhức đầu, đau mắt, đau răng do huyết hư
- Dùng chúng với huyết dược như ý dĩ, Ngưu tất thời có thể dẫn thuốc đi xuống để chữa bệnh đau lưng, chân bại liệt do huyết không tưới nhuần đến gần
- Hợp với khí dược như Nhân sâm, Ô dược, Ý dĩ thời có thể tưới nhuần phần biểu để chữa thấp độc gân co cả người
- Dùng nó làm tá cho Sâm Kỳ thời bổ khí huyết hư lao mà chỉ hãn sinh da non
- Làm tá cho Thục địa. Bạch thược thời có thể dưỡng huyết, tư âm mà bổ thận
- Dùng với Bạch thược, Mộc hương thời hóa can mà chỉ thống, chữa kiết lỵ
- Hợp với Miết giáp, Sài hồ thời chặn nóng lạnh mà trừ chứng sốt rét
- Hợp với Trần bì, Bán hạ thời có thể chống nôn
- Hợp với Viễn chí thời dưỡng tâm yên được cơn hồi hộp
- Làm tá cho Quế Phụ thời nóng mà ôn trung tán hàn
- Làm tá cho Phác tiêu Đại hoàng thời lạnh mà thông trường nhuận táo
- Làm tá cho Nga truật, Khiên ngưu thời phá huyết mà tiêu chứng trưng hà
Kiêng kỵ: Đối với các chứng thổ huyết, nục huyết bằng huyết thì nên dùng ít, dùng nhiều thời có thể động huyết; ỉa chảy thì kiêng dùng, tâm khí hao tán cũng kiêng hẳn.
Chú ý:
- Cho vào thuốc dưỡng huyết, hòa huyết thời nên sao với rượu
- Chữa phần trên thì tẩm rượu
- Chữa bệnh ngoài thì tẩy rượu
- Chữa bệnh máu huyết thì nấu với rượu
- Chữa bệnh đờm thì rưới nước gừng mà phơi khô
- Chữa thổ huyết, nục huyết, băng huyết thì tẩm giấm sao qua, nên dùng ít ít
- Quy đầu hay chỉ huyết mà đi lên
- Quy vĩ hay phá huyết mà đi xuống
- Quy thân dưỡng huyết mà cố thủ phần giữa
- Toàn quy hay hoạt huyết mà chạy
Liều lượng: thường dùng 4 – 16g. Dùng ngoài tùy theo bệnh lý.
9. Ứng dụng lâm sàng
9.1.Đối với phụ khoa: Đương quy là chủ dược, chủ yếu dùng điều kinh, đối với đau kinh dùng rất hay, thường phối hợp với Bạch thưọc, Xuyên khung, Hương phụ. Nói chung các bài thuốc không thể thiếu Đưong quy.
- Tứ vật thang ( quy Thục Khung Thược): là bài thuốc chính để điều huyết ( lý huyết). Trị các chứng huyết hư, huyết ứ, kinh nguyệt không đều, các chứng tai biến tiền sản hậu đều trên cơ sở bài thuốc đó mà gia giảm.
9.2.Dùng Đương quy dưỡng huyết: đối với chứng Tâm huyết hư ( hồi hộp, dễ quên, mất ngủ, tâm phiền, bứt rứt.) thường dùng bài:
- Đương quy bổ huyết thang ( Nội ngoại thương biên hoạt luận): Đương quy 8g, Hoàng kỳ 30 – 40g, sắc nước uống.
Trường hợp tỳ huyết hư (da vàng bủng, người gầy, ăn kém) dùng bài:
- Tứ vật thang ( Hòa tể cục phương): Thục địa 12g, Đương quy 8g, Bạch thược 8g, Xuyên khung 4g, sắc uống.
Trường hợp can huyết hư ( đau váng đầu, hoa mắt, ù tai, chân tay co rút.) dùng bài:
- Nhất quán tiễn ( Liễu châu y thoại): Đương quy thân 12g, Bắc Sa sâm 12g, Mạch môn 8g, Sinh địa 8g, Kỷ tử 16g, Xuyên luyện tử 4 – 6g, sắc uống.
9.3.Trị ứ huyết chân tay do té ngã chấn thương: phần mềm sưng đau, hoặc viêm tắc động mạch, dùng Đương quy hoạt huyết trục ứ, dùng bài Hoạt lạc hiệu linh đơn: Đơn sâm 20g, Đương quy 12g, Nhũ hương 6g, Mộc dược 6g, sắc uống. Bài thuốc này trị được đau bụng.
9.4.Trị đau lưng do khí huyết ứ trệ kiêm hư hàn: thường gặp sau đẻ đau bụng, dùng bài:
- Đương quy kiến trung thang ( Thiên kim dực phương): Đương quy 16g, Quế chi 8g, Bạch thược 16g, Bột Cam thảo 10g, Sinh khương 4g, Hồng táo 20g, Đường phèn 40g, hòa với thuốc sắc uống. Hoặc bài:
- Đương quy sinh khương dương nhục thang ( Kim qũy yếu lược): Thịt dê 200g, Đương quy 40g, Gừng tươi 20g, chưng cách thủy hoặc sắc nước uống ấm.
Trường hợp đau do ứ trệ ( đau bụng kiết lî hoặc đau bụng kinh ở phụ nữ) dùng bài gia vị Đương quy Thược dược tán: Đương quy 12g, Bạch thược 16g, Xuyên khung 8g, Bạch truật, Bạch linh, Trạch tả mỗi thứ 12g, Hương phụ 8g, Diên hồ sách 8g, sắc uống.
9.5.Trị ung nhọt kéo dài ( ung thư, thóat thư, lở loét kéo dài khó lành, viêm tắc động mạch.) dùng bài Tứ diệu dũng an thang ( Nghiệm phương tân biên) gia vị: Huyền sâm 16g, Đương quy 12g, Kim ngân hoa 16 – 20g, sinh Cam thảo 4 – 8g, gia Bồ công anh 16g, Đơn sâm 12g, Xích tiểu đậu 12g, Xuyên sơn giáp 12 – 16g, Địa long 8 – 12g. Trường hợp thoát thư ứ huyết nặng gia Đào nhân 12g, Hồng hoa 8 – 10g, khí hư gia Hoàng kỳ 12 – 16g, Đảng sâm 12g.
9.6.Trị táo bón do khí hư: dùng bài Tế xuyên tiễn ( Cảnh nhạc toàn thư):
- Tế xuyên tiễn: Đương quy 16g, Xuyên Ngưu tất 8 – 12g, Nhục thung dung 12g, Trạch tả 12g, Thăng ma 3g, Chỉ xác 6g, sắc uống.
- Đương quy (sao với dầu mè 40g) sắc uống.
- Nhuận tràng hoàn: Đương quy vĩ 12g, Đại hoàng 6 – 10g, Đào nhân, Ma nhân mỗi thứ 20 – 30g, Khương hoạt 16g, tán bột mịn luyện mật uống 8g x 2 lần/ngày, uống sáng tối trước lúc ngủ. Trị chứng bón do huyết táo.
9.7.Trị chảy máu cam không ngừng: Đương quy sao khô, tán nhỏ, mỗi lần uống 4g với nước cháo, ngày 2 – 3 lần.
9.8.Dưỡng não hoàn: Đương quy 100g, Viễn chí 40g, Xương bồ 40g, Táo nhân 60g, Ngũ vị 60g, Kỷ tử 80g, Đởm tinh 40g, Thiên trúc hoàng 40g, Long cốt 40g, Ích trí nhân 60g, Hổ phách 40g, Nhục thung dung 80g, Bá tử nhân 60g, Chu sa 40g, Hồ đào nhục 80g. Tất cả tán thành bột thêm mật ong viên thành viên nặng 4g. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 viên, uống liền 15 ngày.